Page 381 - Con duong xuat duong cua TBT Tran Phu
P. 381

chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp độc lập và giải phóng dân tộc.
            Ngay sau khi đồng chí Trần Phú hy sinh, trước những mất mát
            to lớn đó trong điều kiện bị kiểm duyệt ngặt nghèo, nhiều tờ
            báo đã đưa tin về sự hy sinh anh dũng của đồng chí Trần Phú

            như báo Tin tức, báo Dân chúng. Hội Cứu tế đỏ của Quốc tế
            Cộng sản in hình đồng chí trên Bích chương của Hội. Tạp chí
            Quốc tế Cộng sản từng ca ngợi: “Sự nghiệp cách mạng, niềm
            tin và phẩm chất cao đẹp của Tổng Bí thư Trần Phú trong nhà
            tù đế quốc sẽ mãi mãi là tấm gương bất diệt cho những người
            Cộng sản” . Tiếc thương người đồng chí, anh em tù chính trị
                        1
            tại Khám lớn Sài Gòn đã làm bài thơ tiễn biệt đầy xúc động:

               Trần Phú anh ơi đã thác rồi
               Thác mà như thế đẹp gương soi

               Bao phen sóng gió đâu sờn dạ

               Mấy trận đòn tra chẳng hở môi

               Tuy anh đã thác gương còn sáng
               Thác được như anh sáng suốt đời.

               Hiện nay, rất nhiều cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, công ty,
            trường học, các con đường đô thị và địa danh mang tên đồng
            chí Trần Phú. Các lễ kỷ niệm ngày sinh, nhất là vào các năm
            chẵn  của  đồng  chí  Trần  Phú  đều  được  Đảng,  Nhà  nước  và
            Đảng bộ, nhân dân Hà Tĩnh đứng ra tổ chức hội thảo khoa
            học, dâng hương tưởng niệm long trọng với sự tham dự của các
            đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đánh dấu sự ghi nhận
            những công lao cống hiến to lớn của đồng chí trong sự nghiệp
            cách mạng Việt Nam.

               Từ năm 1977 đến năm 2002, Khu di tích lưu niệm đồng chí
            Trần Phú là một bộ phận của Bảo tàng Nghệ Tĩnh, từ năm 1991
            là Bảo tàng Hà Tĩnh. Có chức năng, nhiệm vụ chính là bảo tồn,


            (1)  Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh: Tạp chí Quốc tế Cộng sản, số 4, năm
            1932, tiếng Nga, tr.67, 68.

            380
   376   377   378   379   380   381   382   383   384   385   386