Page 60 - 8 - Những Tâm Hồn Cao Thượng
P. 60

Trong từng đường may



                                  iện đã được phát hiện bởi những người Hy Lạp cổ đại, thế mà mãi đến mùa
                                Đ
                                  hè năm 1948 nó mới tìm được đường đến trang trại của cha mẹ vợ tôi. Đó
                                là khi chiếc xe tải của Hợp tác xã Điện lực Nông thôn Quận Cam đến con
                                đường Grimes Lake để trồng cột và kéo dây. Mẹ vợ tôi, bà Ruby, đang ngồi

                                trước hiên nhà để bóc đậu trong lúc những người thợ trồng trụ điện xuống
                                đất. Tối hôm đó, bà hỏi ông Howard -bố vợ tôi, xem ông nghĩ sao nếu bà
  mua một cái máy may điện. Chiếc máy may đạp chân của bà đã bị hỏng, nó là nạn nhân của hai đứa
  con trai “thích khám phá” của bà vì chúng đã “khai tử” cái bàn đạp máy may sớm như vậy.


      Ngày hôm sau, hai ông bà lái xe đến Trung tâm máy may Singer ở Bedford và mua một chiếc máy
  may điện hiệu Singer mới toanh, có dụng cụ dùng để thùa khuyết áo, có vỏ bọc và còn có thêm một cái
  ghế. Giá của nó là 240 đôla, đó là số tiền họ kiếm được từ việc bán cả một xe tải đầy lợn cho một xí
  nghiệp thịt hộp ở New Solsberry. Bà bắt tay vào việc may đồ cho mấy cậu con trai của mình. Sau bữa
  ăn tối, khi bàn ăn đã được dọn sạch sẽ và chén đĩa cũng đã rửa xong, bà lại cắm cúi bên chiếc máy

  may, cố may thật nhiều quần áo cho các con và cho những người hàng xóm. Bà đã may hàng ngàn chiếc
  váy đầm, áo sơmi và quần đùi. Cả quần áo búp bê, quần áo cho vợ của vị mục sư trong thị trấn, những
  bộ váy khiêu vũ, và cả những bộ áo cưới. Mũi kim của chiếc máy may hiệu Singer đã nhấc lên xuống
  cả triệu lần. Cả gia đình thường thiếp đi dưới những chiếc chăn bông do chính tay bà làm, và được ru
  ngủ bởi tiếng rền rền của chiếc máy Singer.


      Bọn trẻ lớn lên và dọn ra ở riêng. Những đứa cháu lần lượt ra đời, có tám đứa tất cả. Chiếc máy
  may Singer lại may những bộ đồ sản phụ, đồ trẻ em, áo dài dành cho lễ rửa tội và chăn bông cho
  những chiếc nôi. Đến năm 1987, bà gọi điện cho chúng tôi, giọng hết sức chán nản. Sau ba mươi chín

  năm, chiếc máy may Singer của bà đã trở nên ì ạch. Vì thế bà mang nó đến cho ông Gardner ở thị trấn
  bên cạnh. Ông ấy đã sửa qua nhiều máy may nhưng không thể phục hồi được chiếc máy của bà. Ông
  gửi nó đến tận Chicago. Một tháng sau, chiếc máy được gửi trả lại với một mảnh giấy gắn kèm ở sợi
  dây. Mảnh giấy ghi: Đã lỗi thời. Không còn bộ phận thay thế.


      Ngày hôm sau, tôi đến một cửa hàng bán máy may để mua một chiếc mới. Chiếc máy cũ của bà
  được làm bằng kim loại, còn những cái máy mới toàn được làm bằng nhựa và có cả thiết bị điện tử để
  tính toán và giá thì chỉ ngang với chiếc xe hơi đầu tiên của bà. Họ phân loại chúng theo cách sử dụng.
  Tại nơi trưng bày còn một chiếc máy Singer đầu đen đời 1948 bằng kim loại.


      “Cái này còn chạy không vậy?”, tôi hỏi người bán hàng.


      “Tôi không biết nữa”, ông ấy trả lời. “Để tôi thử cắm điện xem sao.” Ông ấy cắm điện. Chiếc máy
  rền lên như được sống lại.


      “Nó không phải để bán đâu”, ông ta bảo tôi. “Nó chỉ để trưng bày thôi. Quanh đây không còn nhiều
  những cái máy Singer cũ đầu đen như thế này nữa đâu.”


      Thế là tôi kể cho ông ấy nghe về mẹ vợ tôi - về cách bà đã tự kiếm sống và bận bịu may vá như thế
   55   56   57   58   59   60   61   62   63   64   65