Page 48 - LỜI GIỚI THIỆU
P. 48
văn minh trong lễ hội, việc tang, việc cưới được nhân dân
đồng thuận và tự giác thực hiện. Nhiều nét đẹp văn hóa
truyền thống, tình cảm cộng đồng được duy trì và phát triển.
Huyện tiến hành tổ chức học tập kinh nghiệm hay trong
xây dựng làng, khu văn hóa, từ đó nhân rộng mô hình trong
dân cư. Năm 2006, 6/12 làng được cấp bằng văn hóa, trong
đó có 11 gia đình văn hóa tiêu biểu, 669 hộ/1.192 hộ (56%)
được công nhận là gia đình văn hóa. Năm 2007, toàn huyện
có 6/12 làng, khu văn hóa và 800 gia đình đạt gia đình văn
hóa. Năm 2009, toàn huyện có 98% hộ gia đình đăng ký xây
dựng gia đình văn hóa, trong đó 65% số hộ đạt danh hiệu
gia đình văn hóa; 50% số làng, khu được công nhận làng,
khu văn hóa cấp huyện.
Xác định đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển,
Huyện ủy ban hành Nghị quyết chuyên đề về giáo dục đào
tạo với mục tiêu phát triển toàn diện các cấp học, chuẩn hóa
đội ngũ giáo viên và hệ thống trường lớp. Thực hiện Nghị
quyết, vượt lên những khó khăn của một huyện nghèo, mới
thành lập, Cô Tô vẫn dồn sức tập trung đầu tư cơ sở vật chất
cho giáo dục - đào tạo. Hệ thống trường lớp từng bước được
kiên cố hóa và sắp xếp phù hợp. Năm 2009, toàn huyện có 10
trường học từ mầm non đến trung học phổ thông, 01 Trung
tâm hướng nghiệp và giáo dục thường xuyên. Cơ sở vật chất
phục vụ cho dạy và học ở các cấp được đảm bảo. Chương
trình xây dựng trường chuẩn quốc gia được đẩy mạnh. Đến
năm 2010, bước đầu mỗi cấp học từ mầm non đến trung học
cơ sở đã có 1 trường đạt chuẩn quốc gia. Hệ thống trường lớp
42

