Page 477 - HỒ SƠ GIẢNG GIỎI
P. 477
Chủ đề 2: Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 17: Đồng phạm là trường hợp có hai người
trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
- Tất cả những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội
phạm đã gây ra.
Do đồng phạm là cùng chung hành động của nhiều người cùng cố ý thực hiện
tội phạm để đạt được kết quả chung. Chính vì vậy, tất cả những người đồng phạm
phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm mà họ đã thực hiện. Trách nhiệm
chung về toàn bộ tội phạm đã gây ra được thể hiện:
+ Những người đồng phạm đều bị điều tra, truy tố, xét xử về một tội danh theo
cùng một điều luật và trong phạm vi những chế tài mà điều luật đó quy định.
+ Tất cả những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm hình sự về những tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (nếu có) được quy định trong Điều 52 BLHS,
nếu hành vi cấu thành tình tiết tăng nặng hình phạt đó đã được mọi thành viên trong
đồng phạm chấp thuận.
+ Những người trong đồng phạm phải chịu chung những nguyên tắc về truy
cứu trách nhiệm hình sự, về nguyên tắc quyết định hình phạt, về thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự của tội phạm mà họ cùng thực hiện.
- Mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện
tội phạm.
+ Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá
của người thực hành (khoản 4 Điều 17 BLHS). Hành vi vượt quá là hành vi có thể
cấu thành một tội độc lập khác ngoài sự bàn bạc, tính toán mà những người đồng
phạm đã thực hiện.
Hành vi vượt quá là trường hợp người thực hành đã thực hiện vượt ra ngoài kế
hoạch, sự mong muốn, ý định cùa những người đồng phạm khác. Khoản 4 Điều 17
BLHS quy định người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
vượt quá của người thực hành. Nếu người thực hành thực hiện hành vi vượt quá thì
họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá đó. Khoa học Luật hình sự
chia hành vi vượt quá thành hai dạng: Vượt quá về số lượng và vượt quá về chất

