Page 501 - HỒ SƠ GIẢNG GIỎI
P. 501
Câu 5: Phân tích điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội? Vì
sao người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự?
Khái niệm: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực
hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội được quy định tại Điều 16 BLHS năm 2015.
Điều kiện:
- Điều kiện về thời điểm dừng lại của tội phạm: Tội phạm được thực hiện
đang ở giai đoạn CBPT hoặc PTCĐ chưa hoàn thành thì dừng lại.
Nếu hành vi phạm tội đã ở giai đoạn tội phạm hoàn thành hoặc phạm tội
chưa đạt đã hoàn thành thì người phạm tội đã thực hiện hết hành vi khách quan
được quy định trong cấu thành tội phạm để đạt mục đích đặt ra. Vì thế, trên thực tế
không còn cơ hội để họ từ bỏ ý định phạm tội, cho nên không thể công nhận là tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
- Điều kiện về ý thức chủ quan của người phạm tội: Việc chấm dứt thực hiện
tội phạm phải tự nguyện và dứt khoát.
+ Tự nguyện: Người phạm tội không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa là do
động lực bên trong của họ (ý muốn chủ quan của người phạm tội); có thể do bất kỳ
động cơ nào, như: do hối hận, do sợ bị bắt đi tù...
+ Dứt khoát: việc chấm dứt thực hiện tội phạm phải triệt để, tức từ bỏ hẳn ý
định phạm tội, không phải là tạm thời chốc lát.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình
sự, bởi vì:
- Về khách quan: Hành vi của người phạm tội trong trường hợp tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội chưa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
- Về chủ quan: Người phạm tội tự nguyện và dứt khoát từ bỏ hẳn ý định phạm
tội, mặc dù về khách quan không có gì ngăn cản. Cho nên, tính nguy hiểm của
hành vi phạm tội không còn nữa. Do đó việc truy cứu TNHS đối với họ không còn

