Page 982 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 982
982 Ñòa chí Quaûng Yeân
XV. Xã Liên Hòa
1. Địa lý tự nhiên
Liên Hòa là xã ven biển, cách trung tâm thị xã 10 km về phía Đông Bắc. Xã có vị trí:
phía Đông giáp Sông Chanh, phía Tây giáp phường Phong Cốc, phía Nam giáp xã Tiền
Phong và xã Liên Vị, phía Bắc giáp phường Phong Hải.
Nằm ở phía Nam của thị xã Quảng Yên, Liên Hòa có vị trí giao thông quan trọng
với tuyến cao tốc Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long chạy qua, kết nối tuyến đường Khu
công nghiệp Bắc Tiền Phong - Nam Tiền Phong với đường tỉnh 338. Xã còn có các tuyến
đường sông, đường biển đi Hạ Long - Vân Đồn - Móng Cái và Cát Bà - Hải Phòng, thuận
lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội, nhất là giao lưu thương mại.
Xã Liên Hòa có tổng diện tích đất tự nhiên 2.999,86 ha; trong đó diện tích đất sản
xuất nông nghiệp 961,07 ha, diện tích đất phi nông nghiệp 863,23 ha, diện tích đất chưa
sử dụng 783,64 ha và diện tích mặt nước 391,92 ha. Phần lớn diện tích đất đai trên địa
bàn là vùng đồng bằng thấp được sử dụng làm đất ở, đất canh tác nông nghiệp và vùng
trũng ngập nước (đầm, ao, hồ, bãi triều) được sử dụng nuôi trồng thủy sản.
Liên Hòa nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa hè
nóng ẩm, mưa nhiều; mùa đông lạnh, khô. Nhiệt độ trung bình năm từ 23 - 24 C, kết
0
hợp cùng lượng mưa trung bình hằng năm từ 1.700 - 1.800 mm, thuận lợi phát triển
đa dạng các loại cây trồng và vật nuôi. Tuy nhiên, do nằm trong vùng địa hình ven
biển, Liên Hòa thường xuyên bị ảnh hưởng bởi các hiện tượng thời tiết cực đoan như:
mưa lũ, dông, bão... gây thiệt hại nặng nề tới đời sống sinh hoạt cũng như sản xuất
của người dân.
Thuận lợi và thách thức trên đây là điều kiện để Liên Hòa không ngừng phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần xây dựng, phát triển quê hương
ngày càng giàu đẹp, văn minh.
2. Khái quát quá trình hình thành
Theo gia phả dòng họ Đỗ Độ, Đào Bá Lệ và gia phả dòng họ Lê Phúc thôn Lưu Khê,
vào năm 1434, hai Tiên Công Đỗ Độ và Đào Bá Lệ quê ở Phủ Lý, Hà Nam đã chiêu tập
người, trong đó có ông Lê Phúc Hy quê ở Văn Cú, Hải Dương đến vùng đất phía Đông
xã Phong Lưu quai đê lấn biển lập nên làng Lương Quy, sau đổi tên thành xã Lưu Quy,
rồi thành xã Lưu Khê.
Cùng thời gian đó, phía Đông Nam Bồng Lưu có 2 cụ Hoàng Nông và Hoàng Nênh
người vùng Trà Lũ chiêu mộ nông dân đến khai hoang, lấn biển lập nên xứ Bản Động.
Năm 1472, xứ Bản Động đổi tên thành thôn Trung Bản.
Thời Mạc, một số cư dân ở nhiều vùng quê khác nhau sống bằng nghề chài lưới ở cửa
sông Bạch Đằng đến phía Tây làng Lưu Khê khai khẩn đất đai, lập nên làng Quỳnh
Biểu, sau thành xã Quỳnh Biểu.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng chia tổng Hà Nam
thành 3 xã: Nam Hòa, Phong Cốc và Trung Bản.