Page 419 - Trinh bay Dia chi Quang Yen final
P. 419

418    Ñòa chí Quaûng Yeân



               Ngoài đồ trang sức bằng đá, cư dân Đầu Rằm còn làm đồ trang sức từ gốm, chì, xương,
               sừng (đốt sống cá, răng, sừng động vật), đồng với các đại diện tiêu biểu như: vòng tay,
               trâm cài tóc, vòng đeo cổ...

                  Song song với chế tác đồ đá, gốm, cư dân Đầu Rằm còn biết chế tác đồ đồng, sắt với
               một số hiện vật tiêu biểu như: rìu, lưỡi câu, thạp đồng, vũ khí, mai...

                  Thời kỳ Bắc thuộc, khu vực Quảng Yên tiếp tục đón nhận những luồng dân cư đến
               sinh sống. Người dân Quảng Yên tiếp thu kỹ thuật làm gốm của người Hán sau đó chế
               tác ra các đồ gốm dân dụng và gạch nung để xây dựng hầm mộ, nhà cửa. Những ngôi
               mộ gạch (mộ Hán), mộ đất được tìm thấy ở Sông Khoai, Tiền An, Tân An, Hoàng Tân...
               với đồ tùy táng bằng gốm đã cho thấy các hoạt động tiểu thủ công nghiệp vẫn được duy
               trì và phát triển.
                  Dưới thời Lý, Trần, Hồ, cư dân sinh sống ở Quảng Yên còn tương đối thưa thớt, sản

               xuất thủ công nghiệp ở Quảng Yên thời kỳ này gắn liền với phục vụ nhu cầu sinh hoạt,
               sản xuất nông nghiệp. Tại khu vực rìa phía Nam của đượng đất chạy dọc bờ Sông Chanh -
               ngã ba Chanh (nay thuộc phường Yên Giang) đã phát hiện được số lượng lớn gốm sành
               niên đại thế kỷ IX - X đến thế kỷ XII mang đặc trưng phong cách Lý - Trần sớm.

                  Dưới thời Lê, vua Lê Thái Tông khuyến khích người dân đi khai hoang, lập xóm
               dựng làng. Hưởng ứng lời kêu gọi khai canh lập ấp của vua, nhiều người dân Thăng
               Long xuôi theo dòng Sông Hồng, đến vùng cửa sông Bạch Đằng khai hoang, lấn biển,
               lập xóm dựng làng. Tiếp đó, cư dân ở Thái Bình, Nam Định, Hải Dương cũng đến vùng
               Hà Nam sinh sống bằng nghề nông và nghề chài lưới. Theo lời kể của các bậc cao niên
               làng Hưng Học, những lớp cư dân đầu tiên đến đây đã “thau chua rửa mặn” đất để
               làm nông nghiệp với phương thức “lúa lấn cói, cói lấn cá, cá lấn biển”. Trong thời gian
               nông nhàn, bằng những nguyên liệu sẵn có như tre, nứa, người dân nơi đây đã tạo ra
               ngư cụ đánh bắt sông nước như: đó, lờ, đăng và thuyền nan để phục vụ cho hoạt động
               đánh bắt thủy hải sản .
                                       (1)
                  Khu vực Hà Nam có đặc điểm bốn bề sông nước, để đáp ứng và thích nghi với tự

               nhiên, các vị Tiên Công ở xã Phong Lưu (nay là phường Phong Hải) đã sáng tạo ra con
               thuyền gỗ ba mảnh chạy bằng buồm cánh dơi, có bánh lái mũi, bánh lái lòng, chạy được
               cả khi ngược nước, ngược gió. Các đội đóng thuyền của làng nghề được các triều đại
               phong kiến cấp bằng chế tạo thuyền, trong đó dòng họ Nguyễn hiện còn lưu giữ được
               một bản bằng sắc của Bố chánh sứ họ Trịnh và Án sát sứ tỉnh Quảng Yên cấp bằng chế
               tạo thuyền cho đội thợ thuyền của ông Nguyễn Văn Phúc.

                  Như vậy, thủ công nghiệp có vai trò bổ trợ cho sản xuất nông nghiệp trên nhiều phương
               diện như: cung cấp nông cụ sản xuất (nghề rèn), cung cấp các mặt hàng cần thiết phục
               vụ đời sống nhân dân, đồng thời tiêu thụ sản phẩm cho nông nghiệp, giải quyết vấn
               đề dư thừa lao động lúc nông nhàn. Thợ thủ công chủ yếu là những người nông dân,

               (1)  Xem Vũ Trung: “Sản xuất ngư cụ - nghề đặc trưng của cư dân vùng sông nước (Qua dẫn liệu làng
               nghề Hưng Học, xã Nam Hòa, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh)”, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á,
               số 8, 2008, tr.72.
   414   415   416   417   418   419   420   421   422   423   424