Page 530 - Trinh bay Dia chi Quang Yen final
P. 530

Phaàn V: Vaên hoùa - Xaõ hoäi    529



               Trong lần khai quật này, các nhà khảo cổ học đào 10 hố thám sát với tổng diện tích 126,6
               m , trong đó có 7 hố thuộc phạm vi bãi cọc và 3 hố ở vùng trước bãi cọc. Hố gần đê nhất
                 2
               cách 12 m và xa chân đê nhất cách 120 m. Trong đợt khai quật này, dựa vào chất liệu
               cọc có thể phân làm 2 loại: loại thứ nhất có thớ vặn xoắn, khi xuất lộ có gỗ màu xanh
               đen còn rất chắc, dẻo, không bị mục có lẽ là gỗ lim. Loại còn lại có thớ thẳng chạy song
               song, khi xuất lộ có màu đỏ hay sẫm, phần lõi còn dẻo nhưng phần giác gỗ bị mục, loại
               này khi lấy lên để khô bị nứt ra ngoài và chưa xác định được là loại gỗ gì. Hình dáng,
               kích thước cọc của đợt khai quật này giống như các cuộc khai quật trước. Ngoài những
               cọc gỗ còn có một số phế liệu là những đoạn gỗ nhỏ, các nhà nghiên cứu nhận định đây
               là những cây được buộc giằng cho các cọc. Bãi cọc chạy dài theo hướng Đông Bắc - Tây
               Nam, dài khoảng 115 m, rộng khoảng 20 m với mật độ không đều đóng theo thế cài răng
               lược, không theo hàng lối nhất định. Nhận định về đợt khai quật này, các nhà khoa học
               cho rằng các cọc gỗ được cho là để làm hẹp lòng sông và chặn thuyền quân Nguyên vào
               lúc nước chiều cao nhất. Khi nước triều thấp nhất, các cọc sâu hơn ở lòng sông có thể đã
               tham chiến .
                           (1)
                  Năm 2014, Viện Khảo cổ học phối hợp với Ban Quản lý các di tích trọng điểm Quảng
               Ninh và Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên tiến hành khảo sát toàn bộ khu vực cánh
               đồng Yên Giang và mở 20 hố khai quật, thám sát với diện tích 169 m . Các hiện vật
                                                                                           2
               thu được gồm các loại hình gốm men, đồ sành, gạch, ngói, di vật đồ gỗ, đá... trong đó có
               nhiều loại hình được xác định thuộc thời kỳ Lý - Trần. Kết quả khai quật đã phản ánh
               diện mạo các gò cát lớn trên bờ Bắc và dấu tích hoạt động sống của con người. Đặc biệt
               là chiếc cọc gỗ lớn được phát hiện trong hố TS17 (thám sát 17) cho thấy một lần nữa tầm
               quan trọng chiến lược của bãi cọc Yên Giang .
                                                              (2)
                  Qua sáu lần khai quật, các nhà khoa học đã phát hiện một số lượng di vật lớn, tiêu
               biểu là các cọc gỗ, vồ đóng cọc và các cành cây. Bên cạnh đó còn một số lượng lớn di vật
               mang dấu tích sinh hoạt của con người như gốm men, đồ sành... Hoạt động này khá sôi
               nổi vào thời Lý - Trần, đặc biệt là thời Trần, đây là nguồn tư liệu quan trọng để nghiên
               cứu các yếu tố liên quan đến trận đánh năm 1288. Cùng với bãi cọc Đồng Vạn Muối và
               bãi cọc Đồng Má Ngựa, di tích bãi cọc Yên Giang góp phần cung cấp những bằng chứng
               có sức thuyết phục cho chiến lược và chiến thuật của danh tướng Trần Hưng Đạo.

                  Với những giá trị lịch sử quan trọng, ngày 22/3/1988, Bộ Văn hóa - Thông tin ban
               hành Quyết định số 191-VH/QĐ xếp hạng di tích bãi cọc Yên Giang là Di tích lịch sử
               quốc gia. Ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1419/QĐ-TTg
               xếp hạng Di tích lịch sử Bạch Đằng là Di tích quốc gia đặc biệt, trong đó có bãi cọc Yên
               Giang. Hiện nay, bãi cọc Yên Giang được Ủy ban nhân dân thị xã khoanh vùng bảo vệ,
               dựng bia giới thiệu. Bãi cọc Yên Giang không chỉ có giá trị lịch sử đơn thuần mà còn là
               “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của dân tộc cho thế
               hệ hôm nay và mai sau.


               (1)  Xem Lê Thị Liên, Mark Starnifoth, Jun Kimura: “Vai trò của các bãi cọc ở chiến trường Bạch Đằng -
               Nhận thức mới từ kết quả khảo cổ học gần đây”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Bạch Đằng và Nhà Trần
               trong bối cảnh thế giới thế kỷ XIII, Quảng Ninh, 2018, tr.364.
               (2)  Xem Lê Thị Liên (Chủ biên): Báo cáo khảo sát khai quật khảo cổ học đồ án: Bảo tồn và phát huy giá trị khu
               di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng, tỉnh Quảng Ninh năm 2014, Hà Nội, 2014, tr.84-86.
   525   526   527   528   529   530   531   532   533   534   535