Page 107 - Dang bo huyen Lang Giang qua cac ky Dai hoi
P. 107
ÑAÛNG BOÄ HUYEÄN LAÏNG GIANG QUA 22 KYØ ÑAÏI HOÄI
tăng 12,5%, tổng sản lượng tăng 20%. Cây công nghiệp tỷ trọng
tăng từ 6,7% lên 9,1%.
Cây thực phẩm tăng 57%. Chỉ số sử dụng ruộng đất tăng từ
1,7 lên 1,74 lần.
Về lâm nghiệp: đã xanh hóa 1.942ha đồi trọc, với 4 triệu cây
và trồng 1,5 triệu cây phân tán.
Những kết quả đạt được góp phần nâng cao đời sống nhân
dân, phát triển chăn nuôi, cải tạo đất bạc màu, giúp cho Đảng bộ
và Nhân dân trong huyện xác định được phương hướng sản xuất
rõ rệt hơn, phù hợp với đất đai địa phương.
Về chăn nuôi: đàn trâu, bò tăng từ 10.662 con lên 11.683 con,
đàn lợn từ 27.956 con lên 29.360 con (đàn lợn tập thể có 3.346
con). Đàn gia cầm tăng từ 188.900 con lên 257.590 con, bình quân
15 con/hộ. Đã thả cá trên 313ha mặt nước, thu 14 tấn.
Tổng giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp đạt 1,1 triệu đồng,
tăng 53% so với năm 1966. Tiêu biểu là Xí nghiệp 2-9 phải sơ tán
tới 3 địa điểm nhưng vẫn đảm bảo sản xuất, cung cấp đủ công cụ
cầm tay và phụ tùng sửa chữa cơ khí cho nông nghiệp. Các cơ sở
sản xuất vật liệu cung cấp cho xây dựng 6 triệu viên gạch ngói.
Đến năm 1968, huyện có 38 tổ rèn, 23 tổ mộc, bước đầu xây dựng
được 43 điểm cơ khí nhỏ. Nhiều cơ sở sản xuất gạch, ngói, vôi tiếp
tục phát triển nhu cầu xây dựng.
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế phát triển mạnh: cấp I có
tổng số 368 lớp, 16.930 học sinh, cấp II có tổng số 106 lớp, 15.358
học sinh, cấp III có tổng số 9 lớp, 459 học sinh, vỡ lòng, mẫu giáo
277 lớp với 10.393 học sinh. Bình quân 2 năm 1967 - 1968 cứ 3
người dân có 1 người đi học.
Ngành y tế có mạng lưới cán bộ tới đội sản xuất, được tổ chức
thành nhiều tổ chuyên môn như cấp cứu, tải thương... Phòng Y tế
107

