Page 522 - Trinh bay huyen Quoc Oai
P. 522

nông - lâm phát triển. Dự án chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
            các xã vùng Đông Bắc của huyện đang từng bước được thực thi nhằm
            tạo ra sự chuyển biến nhanh về cơ cấu kinh tế ở vùng ven Đáy. Lâm
            nghiệp từng bước được chú ý phát triển, thực hiện chương trình PAM,
            huyện tiến hành trồng 872ha rừng phòng hộ, 961.252 cây phân tán,
            góp phần cải tạo tiểu khí hậu và bảo vệ môi trường.
               Chăn  nuôi  tiếp  tục  phát  triển  theo  hướng  đa  dạng,  tạo  ra  bước
            chuyển biến quan trọng theo hướng sản xuất hàng hóa. Đàn trâu giảm
            0,7% nhưng đàn bò tăng 5,2%, đàn lợn tăng 12,6%. Các chương trình
            “Sind hóa” đàn bò, “nạc hóa” đàn lợn được quan tâm đẩy mạnh. Toàn
            huyện có 750 con bò phối giống lai Sind, hàng nghìn con lợn hướng
            nạc. Chăn nuôi gia cầm chuyển hướng các giống có chất lượng cao,
            bám sát nhu cầu thị trường. Chăn nuôi thủy sản đạt kết quả, được
            tổng kết rút kinh nghiệm và kịp thời nhân ra diện rộng. Tỷ trọng
            ngành chăn nuôi chiếm 38% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, cơ
            bản đạt mục tiêu Đại hội lần thứ XVII đề ra.
               Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp trong 5 năm (1991 - 1995) có
            bước phát triển nhanh và khá toàn diện theo hướng sản xuất hàng
            hóa, tiếp cận thị trường. Mức tăng trưởng bình quân hằng năm đạt
            13,1%, chiếm tỷ trọng 67% GDP. Đời sống nhân dân được cải thiện và
            ổn định, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới.
               Thực hiện Nghị quyết 07 của Trung ương, Nghị quyết 09 của Tỉnh
            ủy Hà Tây về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, Huyện ủy
            tổ chức khảo sát, đánh giá và có nghị quyết chuyên đề về phát triển
            công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến năm 2000 với phương châm:
            Phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư
            nhân, kinh tế hộ gia đình, phát triển nghề truyền thống sẵn có, như cót
            nan, vật liệu xây dựng, cơ khí, chế biến nông lâm sản; sản xuất phải
            gắn liền với thị trường, thị trường là mục đích để sản xuất. Theo đó, các
            doanh nghiệp Nhà nước dần khắc phục tình trạng đình đốn, đi dần vào
            thế ổn định và giải quyết được một phần lao động thiếu việc làm. Kinh
            tế hộ gia đình phát triển mạnh mẽ bên cạnh nhân tố mới xuất hiện là
            các doanh nghiệp tư nhân sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Nhiều ngành
            nghề truyền thống được khôi phục. Mặt khác, tích cực khai thác phát triển
            nghề mới, sản phẩm mới có giá trị ở cả 3 vùng. Thực hiện tốt các chính sách
            cho vay vốn sản xuất ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Số lượng lao động
            và đơn vị tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp tăng nhanh. Đến 1995,

            522
   517   518   519   520   521   522   523   524   525   526   527