Page 132 - LSDB xa Xuan Ngoc
P. 132
cho đồng ruộng. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, các hợp tác xã
đã từng bước đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Phương
thức canh tác cũ như cấy thưa, khoảng cách 40x50 cm... được
thay thế bằng kỹ thuật cấy mới, cấy ít rảnh và dày hơn,
khoảng cách 20x20 cm; kết hợp với kỹ thuật bón phân (phân
chuồng, phân đạm, phân lân) đủ số lượng, chủng loại, đúng
thời vụ, vì vậy chỉ sau một vài vụ, năng suất lúa tăng rất
nhanh. 4 vụ chiêm, mùa của năm 1959 - 1960 đều được mùa,
bội thu, thóc lúa dư dật, giá cả ổn định, đời sống nhân dân
đã có mức tăng đáng kể, mọi người phấn khởi càng thêm tin
tưởng vào đường lối hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng. Tuy
nhiên, cũng ngay từ những ngày đầu cung cách quản lý và
lối làm ăn của hợp tác xã cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đặc
biệt, cơ chế phân phối sản phẩm của hợp tác xã bậc thấp
chưa thực sự quan tâm đến người lao động, còn giành 30%
sản phẩm để trả hoa lợi cho ruộng đất, nông cụ, trâu, bò. Các
khâu chi phí khác cũng khá lớn nên số thóc còn lại chia cho
công lao động rất thấp (một ngày công từ 0,5 - 0,7kg thóc).
Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng xã viên, nhất
là những người lao động trực tiếp. Đây cũng chính là yêu cầu
đặt ra phải nhanh chóng cải tiến quản lý hợp tác xã.
Đi đôi với những thắng lợi trong xây dựng quan hệ sản
xuất, các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế đều phát triển. Hoạt
động thông tin, tuyên truyền, văn hóa văn nghệ được duy trì
thường xuyên. Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển
mạnh, mỗi hợp tác xã đều có đội văn nghệ thường xuyên biểu
diễn những tiết mục độc đáo phục vụ Nhân dân trong các dịp
lễ, tết góp phần nâng cao đời sống tinh thần và động viên
Nhân dân hăng hái tham gia lao động sản xuất. Đặc biệt là
đội văn nghệ Bùi Chu và phố Bùi Chu đã tích cực phục vụ
132

