Page 178 - LSDB xa Xuan Ngoc
P. 178
đầu lợn như trên là một cố gắng lớn của Hợp tác xã và xã
viên. Các hộ dân nuôi bình quân 2 con lợn/hộ, trong đó có
nhiều gia đình nuôi lợn nái. Đàn gia cầm cũng phát triển
nhanh, một số hộ còn đầu tư vốn để nuôi bò sinh sản. Việc
nuôi, thả cá vẫn được duy trì và có bước tăng trưởng khá, kỹ
thuật nuôi thả cá ngày càng được phổ biến rộng rãi. Hàng
chục héc-ta mặt nước chưa khai thác hết, nay được hợp tác
xã quản lý hoặc giao một phần cho xã viên sử dụng, đã cải
tạo thành những ao, hồ nuôi thả cá, hằng năm cung cấp cho
Nhân dân hàng trăm tấn cá thịt và hàng chục vạn cá giống.
Cùng với việc chú trọng trồng trọt và chăn nuôi, Đảng bộ
còn lãnh đạo đẩy mạnh phát triển ngành nghề và giao cho
Hợp tác xã nông nghiệp quản lý. Hai ngành mũi nhọn trong
thời kỳ này là dệt chiếu và thêu ren thu hút hàng nghìn lao
động trong xã. Riêng mặt hàng thêu ren xuất khẩu của xã
được nhiều khách hàng ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu ưa chuộng. Hằng năm, hàng xuất khẩu của Hợp tác xã
thường vượt chỉ tiêu so với kế hoạch đề ra. Các ngành nghề
khác như nung vôi, đốt gạch, vận tải đường sông... cũng thu
hút khá nhiều lao động.
Vào những năm cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ, xã đã cơ bản hoàn thành về hệ thống
thủy lợi. Đến nay (từ năm 1976), công tác thủy lợi tiếp tục
phát triển theo hướng đầu tư chiều sâu. Được sự lãnh đạo
của Đảng ủy, sự quản lý, điều hành trực tiếp của Hợp tác xã
nông nghiệp, đội thủy lợi 202 được củng cố, tăng cường và
chia thành 2 đội với tổng biên chế là 60 lao động gồm những
đảng viên trẻ và những đoàn viên, thanh niên hăng hái, tích
cực. Đội I gồm 35 người, do ông Phạm Văn Tuy là Đội trưởng;
đội II gồm 25 người, do ông Trần Công Tới là Đội trưởng.
178

