Page 35 - LSDB xa Xuan Ngoc
P. 35
III. TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HÓA
Truyền thống trong lao động sản xuất
Vùng đất Xuân Ngọc xa xưa là bãi biển sa bồi, cây cỏ rậm
rạp, hoang vu. Hằng năm, mùa mưa đến, nước sông Ninh Cơ
dâng cao, chảy xiết, nạn ngập lụt đe dọa thường xuyên. Ngay
từ buổi đầu đến khai phá, ông cha ta đã vất vả đương đầu với
thiên tai khắc nghiệt, nắng lửa mưa dầm, ổn định địa điểm,
cắm mốc dựng làng, đắp đê ngăn nước, khẩn trương khai
hoang, phát cỏ, cày cấy... Quá trình cải tạo đồng ruộng, san
ghềnh lấp trũng, xẻ sông đào ngòi, thau chua rửa mặn, kiến
thiết đường sá, bồi trúc đê điều diễn ra trong hàng thế kỷ.
Thời kỳ đầu, nơi đây chỉ cấy được một vụ lúa, sau nâng
dần lên hai vụ đại trà. Trong sản xuất nông nghiệp, cây lúa
nước có vị trí đặc biệt quan trọng. Từ rất sớm, người dân
Xuân Ngọc đã biết tuyển lựa, du nhập những giống lúa ngon,
phù hợp với đồng đất để đưa vào trồng cấy: lúa tẻ có tép
dong, hin, dâu; lúa nếp có nếp cái, nếp hương, nếp mộc; lúa
tám có tám xoan, tám ấp bẹ; dự hương... Trong vườn nhà và
một số chân ruộng phù hợp còn trồng dong riềng, ngô, khoai
nước để hỗ trợ lương thực trong những tháng giáp hạt và
chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Với đặc điểm là nơi hội tụ cư dân của nhiều vùng, miền
khác nhau nên ngoài nghề làm ruộng, những ngành nghề thủ
công ban đầu mang tính tự cấp, tự túc phục vụ cho sinh hoạt
của gia đình cũng xuất hiện như: đan lát, mộc, nề, đốt gạch,
nung vôi, chăn nuôi... Đặc biệt nghề dệt vải đã phát triển
mạnh, Nhân dân trong vùng thường truyền tụng nhau câu ca:
“Sống mặc vải Bùi
Chết vùi vàng tâm”
Cùng với nghề dệt vải, xã còn có nghề trồng dâu, nuôi tằm .
(1)
(1) Địa chí Nam Định, sđd, tr.433.
35