Page 533 - Microsoft Word - Cam Pha dat va nguoi.doc
P. 533
Phần thứ hai: LỊCH SỬ 501
thực hiện sơ tán, lực lượng công nhân tham gia trực chiến,
công tác quản lý và sản xuất đều gặp nhiều khó khăn, vì vậy
sản lượng ngành than trong các năm 1966 - 1968 sụt giảm.
Hội nghị ngành than ngày 10/10/1968 chỉ rõ, trong năm
1968, chỉ có mỏ Cọc Sáu đã hoàn thành kế hoạch cả năm
trước thời hạn 4 tháng . Hội nghị chỉ ra những yếu kém,
1
nguyên nhân và nêu ra bốn vấn đề trọng yếu phải giải quyết
để đưa sản xuất than đi lên. Với nhiều giải quyết đồng bộ,
công nghiệp than tại Cẩm Phả đã dần phục hồi. Sau Hội
nghị, mỏ Đèo Nai, Thống Nhất đã cố gắng hoàn thành kế
hoạch cả năm và nhận sản xuất thêm than ngoài kế hoạch.
Đến hết năm 1968, mỏ Cọc Sáu và đoàn xe Cọc Sáu được
nhận Cờ luân lưu thi đua khá nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh
tặng ngành than. Năm 1971, hầu hết các công ty than ở Cẩm
Phả hoàn thành vượt mức kế hoạch, Công ty than Hòn Gai
hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra 53 ngày . Năm 1972,
2
mặc dù bị máy bay Mỹ bắn phá ác liệt, các công trường than
thị xã vẫn đạt 110% kế hoạch. Đến năm 1973, xí nghiệp
ngành than đẩy mạnh các phong trào thi đua sản xuất, thực
hành tiết kiệm với 8 giờ lao động có năng suất cao, nhanh
chóng khôi phục lại sản xuất. Tổng sản lượng ngành than
trong năm 1973 đạt 109,9% kế hoạch. Các xí nghiệp mỏ
Đèo Nai, mỏ Cọc Sáu, Bến Cửa Ông hoàn thành kế hoạch .
3
_______________
1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.517.
2. Xem Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh: Địa chí Quảng
Ninh, Sđd, t.2, tr.158.
3. “Báo cáo số 03-BC/TU ngày 14/3/1974 của Ban Chấp hành Đảng bộ
thị xã Cẩm Phả về tình hình năm 1973 và phương hướng nhiệm vụ năm
1974 (Báo cáo tại Đại hội đại biểu Đảng bộ thị xã lần thứ X)”, Tlđd, tờ số 46.

