Page 150 - LSDB xa Uy No
P. 150
chuyên như: đội giống, thủy nông, bảo vệ thực vật, làm gạch, nuôi
cá, thảm thêu, cơ khí... Xã tập trung vào việc chọn giống lúa, đưa các
giống cây rau màu, khoai, đậu tương, ngô có năng suất cao vào sản
xuất. Hợp tác xã vận động Nhân dân làm phân xanh, thả bèo dâu và
khai thác phân chuồng để bón ruộng.
Bên cạnh việc bổ sung phân hữu cơ, các loại phân vô cơ và thuốc
bảo vệ thực vật được dùng ngày càng nhiều và phổ biến. Những năm
1976 - 1980, Uy Nỗ cũng như cả nước bắt đầu sử dụng một số hóa
chất trong sản xuất nông nghiệp. Các loại phân hóa học và đặc biệt là
thuốc diệt côn trùng phá hoại lúa, rau màu đã làm ảnh hưởng đến môi
trường sinh thái, tôm cá, hải sản khác ít dần đi. Với quy mô lên hợp
tác xã toàn xã nên bộ máy tổ chức, chỉ đạo sản xuất của Hợp tác xã Uy
Nỗ thời kỳ này rất đông cán bộ (từ cấp xã đến các đội sản xuất có đến
gần 100 người). Vị trí của Ban chủ nhiệm hợp tác xã thời kỳ này là rất
lớn. Tuy chỉ có chức năng điều hành sản xuất nhưng trên thực tế, mọi
hoạt động của địa phương đều liên quan đến vai trò tổ chức của hợp
tác xã (luyện tập dân quân tự vệ, sinh hoạt văn hóa và các hoạt động
khác đều dựa vào cơ sở vật chất của hợp tác xã, Ban quản trị chỉ điểm
cho các hoạt động trên cả việc an ninh trật tự trong các thôn xóm). Do
đó, vai trò Ban quản trị có ảnh hưởng rất lớn, làm thay hầu hết chức
năng của hệ thống chính quyền cơ sở ở thôn xóm. Thời kỳ này, xã viên
trong các tổ sản xuất lấy tiếng kẻng làm hiệu lệnh để đi làm, công việc
cụ thể do đội trưởng đội phó đội sản xuất phân công, hằng ngày đều
được tính bảng công điểm sau đó cuối vụ sẽ quy ra thóc (có những định
mức công điểm khác nhau, các việc như: cày bừa, phun thuốc trừ sâu,
làm cỏ, cấy gặt, chăn trâu, bò... đều có định mức rất cụ thể).
Tuy nhiên giai đoạn này công tác lãnh đạo của Đảng bộ xã Uy Nỗ
còn có một số nhược điểm: trong công tác chỉ đạo sản xuất, Đảng bộ
chưa phát huy tốt vai trò chủ động, công tác 3 quản trong hợp tác
xã chưa chặt chẽ, sử dụng đất nông nghiệp còn tùy tiện. Do sự bất
hợp lý của cơ chế bao cấp, quản lý kinh tế không theo kịp quy mô
hợp tác xã, sản xuất trì trệ, xã viên thiếu tự giác nên thực tế giai đoạn
1976 - 1980 là thời kỳ sản xuất nông nghiệp của nước ta nói chung
gặp nhiều khó khăn nhất.
Thực hiện kế hoạch 5 năm (1976 - 1980), được huyện quan tâm đầu
tư và với tinh thần phấn đấu không mệt mỏi, Đảng bộ, Nhân dân xã
149

