Page 120 - LSDB xa Uy No
P. 120
cho được chương trình “điện khí hóa”. Với phương châm “Nhà nước,
tập thể và Nhân dân cùng làm”, Đảng bộ đã tiến hành cuộc vận động
lớn trong toàn Đảng bộ và toàn dân. Học tập phong trào tiết kiệm “Lỗ
Khê”, Nhân dân xã Hùng Sơn đã thực hiện tiết kiệm trong các ngày
giỗ, tết, trong cưới xin, ma chay. Cuộc vận động đã được Đảng bộ và
toàn dân hưởng ứng. Kết quả sau một thời gian ngắn, Nhân dân đã
đóng góp được 56.000 đồng phục vụ cho chương trình điện khí hóa. Các
đồng chí đảng viên trong xã tích cực hưởng ứng phong trào này, tiêu
biểu như: Đồng chí Vương Văn Chiến, người thôn Hậu Oai, làm Chủ
tịch Ủy ban hành chính xã từ những năm 1961 - 1964; hay đồng chí
Hoàng Thị Thoa là đảng viên và cán bộ y tế xã, kiêm Bí thư Chi bộ thôn
Thượng Oai. Trong chương trình điện khí hóa của xã Hùng Sơn, tại chợ
Tó ngày nay, một trạm biến thế 3 pha đã được xây dựng, điện được kéo
về các thôn xóm trong xã, đảm bảo nhu cầu thắp sáng cho Nhân dân.
Lĩnh vực văn hóa, giáo dục cũng được Đảng bộ xã tích cực quan
tâm, các hủ tục mê tín dị đoan được đẩy lùi, nạn cờ bạc, rượu chè
cũng được ngăn ngừa, góp phần xây dựng nếp sống mới. Đảng bộ tích
cực tuyên truyền, vận động Nhân dân vệ sinh đường làng, ngõ xóm,
các nơi công cộng, với khẩu hiệu “Sạch làng, tốt ruộng”, “Không uống
nước lã, không ăn quả xanh”. Phong trào xây dựng “3 công trình vệ
sinh” (nhà tắm, giếng nước, hố xí 2 ngăn) và công tác tiêm phòng
được đẩy mạnh. Các hình thức tổ chức cưới hỏi, ma chay cũng được
giản tiện, hướng tới tiết kiệm, tránh lãng phí. Các thôn xóm đều
thành lập các đội văn nghệ quần chúng, lấy nòng cốt là đoàn viên,
thanh niên. Qua đó, một mặt vừa tập hợp đoàn viên, thanh niên tích
cực sinh hoạt trong môi trường tập thể, mặt khác là để giao lưu, biểu
diễn phục vụ Nhân dân trong những ngày lễ hội.
Về giáo dục, trên địa bàn xã Hùng Sơn, ngoài các em học sinh trong
các thôn xóm, còn có nhiều học sinh ở mọi lứa tuổi thuộc các đơn vị,
nhà máy, xí nghiệp đóng trên địa bàn xã cũng đến các trường Cấp I và
Cấp II của Hùng Sơn để học tập. Trường sở và phòng học thời gian này
còn rất khó khăn, các lớp học chủ yếu là ở nhà kho, đình chùa, đồ dùng
học tập thiếu thốn, chế độ đãi ngộ cho giáo viên còn hạn chế, hợp tác xã
chỉ trả từ 20 - 25kg thóc/tháng cho mỗi thầy cô giáo. Trong điều kiện
khó khăn thiếu thốn đó, cả thầy và trò vẫn ra sức dạy tốt và học tốt.
119

