Page 471 - BAI 1
P. 471
Chính vì vậy mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc
cùng thực hiện tội phạm. Nguyên tắc này được biểu hiện như sau:
- Những người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt
quá của người đồng phạm khác.
Hành vi vượt quá của người đồng phạm khác là hành vi của người thực
hành trong khi thực hiện tội phạm chung đã thực hiện những hành vi khác mà
hành vi này vượt ra ngoài ý định của những người đồng phạm.
Việc những người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt
quá của người đồng phạm khác vì, giữa những người đồng phạm và người có
hành vi vượt qúa không có tồn tại mối quan hệ cùng thực hiện hành vi vượt quá
đó. Những đồng phạm khác không biết cũng như không muốn cho hành vi cũng
như hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội nên không thể buộc họ chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi vượt quá đó.
Thông thường hành vi vượt quá là hành vi của người thực hành, tuy nhiên
những người đồng phạm khác cũng chí thể là hành vi vượt quá. Ví dụ: Những
người đồng phạm bàn với nhau dùng lựu đạn giả dọa người đi đường để chiếm
đoạt tài sản, nhưng người giúp sức lại cung cấp lựu đạn thật. Hành vi cung cấp
lựu đạn thật là hành vi vượt quá của người thực hành và người giúp sức đó.
Hành vi vượt quá của người đồng phạm có thể đủ yếu tố cấu thành tội
phạm và cũng có thể chỉ làm tăng thêm tính nguy hiểm của hành vi phạm tội
Thực tiễn, hành vi vượt quá của người thực hành thông thường có hai
dạng: Vượt quá về chất và vượt quá về lượng;
+ Vượt quá về lượng (Vượt quá về mức độ nguy hiểm): Hành vi vượt quá
về lượng của người đồng phạm thông thường xảy ra khi người đồng phạm thực
hiện những tình tiết tăng nặng của tội phạm mà những người đồng phạm khác
không thống nhất từ trước.
+ Vượt quá về chất (Vượt quá về tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm): Hành vi vượt quá về chất của người đồng phạm thông thường xảy ra khi
284