Page 173 - LSDB Tp. Cam Pha (1930 - 2025)
P. 173
đạt 2.773 tấn, bằng 119,2% kế hoạch. Đây là một kinh nghiệm
giúp cho Thị xã giải quyết được vấn đề thiếu rau lúc giáp hạt. Chăn
nuôi lợn của Thị xã vẫn được giữ vững. Đàn lợn có 10.146 con, bằng
108,6% kế hoạch. Phong trào chăn nuôi lợn gia đình phát triển,
trong đó có 6.730 hộ chiếm 58,2% số hộ nuôi từ 1 - 3 con.
Đảng bộ và Nhân dân thị xã Cẩm Phả bước vào năm 1975 -
năm kết thúc của thời kỳ khôi phục với nhiều biến động sâu sắc.
Cách mạng miền Nam trên đà phát triển mạnh mẽ và giành
thắng lợi rực rỡ, tạo ra động lực lớn cho toàn Đảng, toàn dân,
trong đó có cán bộ, đảng viên và Nhân dân thị xã Cẩm Phả.
Qua 2 năm khôi phục, các cơ sở sản xuất dần ổn định. Năng
suất, sản lượng có chiều hướng phát triển. Sản xuất thực phẩm
trên địa bàn Thị xã cũng được khôi phục lại.
Để đáp ứng yêu cầu phân phối thực phẩm cho Nhân dân và
khắc phục sự yếu kém trong công tác quản lý, Thị ủy Cẩm Phả
chỉ đạo các ngành, các cơ sở áp dụng chính sách “3 quản”, “3
khoán” , hỗ trợ chăn nuôi, tập trung quản lý ruộng đất trong
(1)
nông nghiệp và nâng cao chất lượng phục vụ hệ thống thương
nghiệp. Nhờ đó, ngành nông nghiệp Thị xã có những tiến bộ rõ
rệt. Diện tích gieo trồng vụ đông xuân năm 1975 đạt 100% kế
hoạch, bằng 123,6% cùng kỳ. Đàn lợn tăng xấp xỉ 59% so cùng
kỳ, bằng 11.255 con. Giá trị tổng sản lượng thủ công nghiệp đạt
100% kế hoạch và bằng 131% cùng kỳ, riêng vật liệu xây dựng
đạt 140% kế hoạch.
Năm học 1975, Thị xã đã tiếp nhận 22.532 học sinh. Tỷ lệ tốt
nghiệp cấp I là 80,3%; cấp II là 85%; cấp III là 87,9%.
Qua 3 năm khôi phục, Đảng bộ và Nhân dân Cẩm Phả đã
chuẩn bị những điều kiện vật chất và tinh thần để bước sang một
thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
(1) Ba quản: Quản lý lao động, quản lý sản phẩm, quản lý vật tư.
Ba khoán: Khoản diện tích, năng suất, sản lượng; khoán vật tư; khoán
ngày công.
172

