Page 137 - LSDB xa Xuan Thuong
P. 137
của Chi bộ, các hợp tác xã từng bước đưa khoa học kỹ thuật
vào canh tác. Thời kỳ này chủ yếu là cải tiến kỹ thuật trong
gieo cấy và chăm bón. Xưa kia có câu “cấy thưa thừa thóc”,
nông dân cấy rất thưa “lúa thước hai, khoai thước mốt” có
nghĩa là mỗi khóm lúa cấy cách nhau khoảng 50cm. Ngày
nay thực hiện kỹ thuật cấy mới: cấy ít rảnh nhưng dày,
phổ biến là 20x20cm, kết hợp với kỹ thuật bón phân (phân
chuồng, phân đạm, phân lân) bón đủ số lượng, đủ chủng loại.
Vì vậy chỉ sau một vài vụ, năng suất lúa tăng nhanh. Bốn vụ
chiêm mùa của năm 1959 - 1960 đều được mùa, sản lượng
bội thu, giá cả ổn định, đời sống nhân dân có mức tăng đáng
kể. Mọi người phấn khởi càng thêm tin tưởng vào đường lối
hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng. Tuy nhiên cũng ngay từ
những ngày đầu, cung cách quản lý và lối làm ăn của hợp tác
xã bộc lộ nhiều hạn chế. Đặc biệt cơ chế phân phối sản phẩm
của hợp tác xã bậc thấp chưa thực sự quan tâm đến người
lao động, còn dành 30% sản phẩm trả hoa lợi cho ruộng đất,
trâu bò, nông cụ của xã viên đều phải trả công bằng thóc,
các khâu chi phí khác cũng khá lớn, nên số thóc còn lại chia
cho công lao động rất thấp. Bình quân giá trị một ngày công
chỉ được từ 0,5 - 0,7kg thóc, điều này ảnh hưởng không nhỏ
đến tư tưởng xã viên, nhất là những người lao động trực tiếp.
Đây chính là yêu cầu khách quan đặt ra phải nhanh chóng
cải tiến quản lý hợp tác xã.
Thực hiện chính sách vận động Nhân dân đi xây dựng
vùng kinh tế mới của Nhà nước, năm 1960, Chi bộ và chính
quyền xã triển khai tới các xóm để Nhân dân học tập và
bàn bạc. Kết quả trong đợt đi đầu tiên (năm 1960) có 7
hộ với 30 nhân khẩu xuống Hồng Thuận (Giao Thủy) xây
dựng vùng kinh tế mới. Cũng năm 1960, Chi bộ xã chỉ đạo
136

