Page 196 - LSDB xa Xuan Thuong
P. 196
Do cây lúa và rau màu phát triển nên chăn nuôi cũng có
điều kiện tăng nhanh. Đảng bộ quyết tâm lãnh đạo đưa chăn
nuôi lên thành ngành chính theo chủ trương của Đảng. Cuối
năm 1976, hợp tác xã mở rộng quy mô trại chăn nuôi lên 18
mẫu Bắc Bộ, trong đó 8 mẫu xây dựng chuồng trại, 10 mẫu
cấy lúa và trồng màu làm thức ăn chăn nuôi. Năm 1976, đàn
lợn cả 2 khu vực tập thể và cá nhân có 1.600 con, đến năm
1979 tăng lên 1.753 con, trong đó trại chăn nuôi tập thể 500
con; đây là cố gắng lớn của hợp tác xã và xã viên. Trong điều
kiện khó khăn, điện, nước đều chưa có, chăn nuôi hoàn toàn
mang tính thủ công nhưng trại nuôi được 500 con lợn là việc
không dễ dàng. Các hộ dân nuôi bình quân 2 con lợn/hộ,
nhiều nhà nuôi lợn nái. Đàn gia cầm cũng phát triển mạnh,
nhiều hộ còn đầu tư vốn để nuôi bò sinh sản. Việc nuôi thả
cá vẫn được duy trì và có mức tăng trưởng khá, kỹ thuật
nuôi, thả cá ngày càng được phổ biến rộng rãi. Tất cả các ao,
hồ công cộng đều được hợp tác xã quản lý, hàng chục héc-ta
mặt nước trước đây bỏ hoang hóa chỉ có bèo tây và cỏ dại nay
được hợp tác xã sử dụng trở thành những ao nuôi cá thoáng
đãng, sạch sẽ.
Bên cạnh việc trồng trọt và chăn nuôi, Đảng bộ còn quan
tâm đẩy mạnh phát triển ngành nghề. Hai ngành hàng xuất
khẩu mũi nhọn là thảm cói và thêu ren thu hút hàng nghìn
lao động trong xã. Riêng nghề thảm cói, bên cạnh các mặt
hàng cũ, thời kỳ này còn làm thêm hàng thủ công mỹ nghệ
như cốc, bát, đĩa, lẵng hoa... được khách hàng Đông Âu rất
ưa chuộng. Đội ngành nghề của hợp tác xã (khoảng 200 lao
động) chỉ lo khâu thành phẩm, còn các công đoạn như ngâm
cói, dóc quại... đều khoán cho xã viên làm tại nhà. Từ năm
1976, Đảng bộ cùng hợp tác xã cố gắng giải quyết việc làm
195

