Page 141 - LSDB xa Xuan Ninh
P. 141
thực hiện chế độ “Ba khoán” , “Ba quản” nhằm giảm bớt lãng
(1)
(2)
phí, hạn chế việc tham ô, ăn bớt của công. Phong trào làm
thủy lợi được Đảng bộ, chính quyền 2 xã chú trọng, tiến hành
nạo vét các sông cấp 2, đắp bờ vùng, bờ thửa, đào mương để
tưới tiêu nước. Năm 1961, xã Xuân Lạc xây 1 cống tưới cạnh
trạm xá xã thuộc hệ thống sông Rộc, xây mới 1 cầu phục vụ
sản xuất và đi lại của Nhân dân; tiến hành đào đắp, nạo vét
hàng vạn mét khối đất thuộc sông Cống Đá, sông Voi. Năm
1962, xã Xuân Nghĩa xây cống tưới Tam Thắng - là một cống
lớn dưới đê sông Ninh Cơ lấy nước phục vụ sản xuất, đào
đắp hàng vạn mét khối kênh mương cấp 2, bờ vùng bờ thửa.
Các biện pháp kỹ thuật canh tác được áp dụng thời kỳ này
như: cày sâu, bừa kỹ, cuốc 2 lượt. Phong trào làm phân xanh,
phân bùn, bèo hoa dâu được xã viên các hợp tác xã làm mạnh
mẽ. Vụ đông xuân 1960 - 1961, lần đầu tiên máy cày được
đưa xuống đồng ruộng Xuân Lạc, thu hút sự quan tâm đông
đảo và tạo không khí náo nhiệt trong nông dân, báo hiệu con
đường cơ giới hóa nông nghiệp trong tương lai.
Do số hộ nông dân vào hợp tác xã ngày càng tăng, địa bàn
lại trải dài, trình độ quản lý của cán bộ còn hạn chế nên đến
cuối năm 1962, Hợp tác xã toàn thôn Lạc Quần chia tách
thành 4 hợp tác xã nhỏ:
Hợp tác xã Trần Hưng Đạo gồm 4 xóm Hưng Đạo, Bắc Sơn, Đông
Thành, Đông Thịnh với quy mô 205 hộ, diện tích canh tác 213 mẫu;
Hợp tác xã Phan Đình Phùng gồm các xóm Đình Phùng,
Hoàng Diệu, Cống Đá với quy mô 85 hộ, diện tích 190 mẫu;
(1) Ba khoán: khoán diện tích, khoán sản lượng và khoán chi phí.
(2) Ba quản: quản lý sản xuất; quản lý lao động; quản lý tài chính, tư
liệu sản xuất.
141

