Page 161 - LSDB xa Xuan Ninh
P. 161
diện tích theo kế hoạch nhưng năng suất lúa đạt dưới
800 kg/mẫu/vụ.
Năm 1968, thời tiết không thuận lợi, mưa rét kéo dài, đất
không được làm ải. Để khắc phục khó khăn, Huyện ủy, Ủy
ban hành chính huyện quyết định phải chuyển sang làm
dầm - đây là yếu tố khách quan, ảnh hưởng tới tập quán
canh tác và tâm lý người sản xuất. Trước tình hình đó, cấp
ủy, chính quyền cùng các hợp tác xã tập trung chỉ đạo cuốc
xới lại diện tích lần 2 sau bừa ngả. Huyện trực tiếp chỉ đạo
cấy hết lúa chiêm xuân trước Tết âm lịch theo phương ngôn:
“Chiêm 2 năm, mùa rằm tháng sáu”. Do công tác thủy lợi
làm tương đối tốt nên luôn giữ được nước chống rét cho lúa.
Bên cạnh đó, lượng phân chuồng, bèo hoa dâu phủ kín đất,
một số diện tích được vùi lấp 2 lần nên vụ chiêm năm 1968
vẫn cho năng suất khá cao.
Vụ mùa năm 1968 do ảnh hưởng của cơn bão số 4, gió lớn
cùng mưa to gây ngập úng ở các cánh đồng trũng nhất là khu
vực Đồng Trung, bên cạnh đó hệ thống tiêu úng chưa hoàn
chỉnh nên việc sản xuất gặp phải khó khăn. Trước tình hình
trên, cấp ủy, chính quyền cùng Ban quản trị hợp tác xã chỉ
đạo Nhân dân tiêu úng cho diện tích lúa bị ngập nên hạn chế
được thiệt hại do thiên tai gây ra.
Cùng với trồng cây lúa, Nhân dân 2 xã duy trì việc trồng
cây khoai nước trên đất hai lúa với diện tích mỗi vụ từ 7 -
10% để cân đối lương thực và phục vụ cho chăn nuôi. Các
diện tích gò màu, vườn trong thổ cư được tận dụng cấy khoai
lang, dong chóc đót để bổ sung thêm trong bữa ăn hằng ngày
và chế biến thành thực phẩm. Từ năm 1965 - 1968, năng
suất bình quân dưới 750 kg/mẫu. Năm 1966, do ảnh hưởng
161

