Page 174 - LSDB xa Xuan Ninh
P. 174
kỹ thuật, thâm canh mới được hợp tác xã áp dụng mạnh mẽ
hơn. Việc đưa các giống lúa mới như Nông nghiệp 5, Nông
nghiệp 8 vào vụ chiêm xuân thay thế dần cho các giống lúa
cũ cao cây, năng suất thấp. Khâu thời vụ được quan tâm chỉ
đạo chặt chẽ, lúa chiêm được cấy đại trà vào trước tết âm
lịch, lúa mùa cấy xong trước tiết lập thu từ 5 - 7 ngày. Lượng
phân bón bằng phân chuồng, bèo hoa dâu, điền thanh tăng
nhanh. Các đội sản xuất đều có nhà chế biến phân để xử lý
trước khi đưa xuống ruộng để phát huy hiệu quả nguồn phân
bón. 100% diện tích được phủ kín bèo hoa dâu. Do được quan
tâm đúng mức nên năm 1969, năng suất và sản lượng bình
quân toàn xã đạt 43,8 tạ/ha.
Ngoài trồng lúa, cùng với các cây lương thực khác như
khoai nước, khoai lang, ngô, đậu đỗ, một số hộ đã đưa cây
khoai tây vào cấy trên đất vườn nhà để tăng thêm nguồn
lương thực - thực phẩm. Tổ chức sử dụng tốt hơn diện tích
bơn bãi, gò màu để trồng đay bẹ tạo nguồn hàng hóa cho cửa
hàng nông sản, tăng thu nhập cho tập thể và xã viên.
Sản lượng lương thực tăng nên chăn nuôi tập thể và hộ
gia đình phát triển nhanh. Hợp tác xã Hòa Bình mở rộng quy
mô chuồng trại từ Hợp tác xã nhỏ Trần Hưng Đạo; Hợp tác
xã Nam Thắng mở rộng quy mô từ Hợp tác xã Trần Phú; các
Hợp tác xã Nghĩa Sơn, Thống Nhất mở rộng quy mô trại và
dành một phần đất thuận lợi gần trại để trồng rau muống,
rau lấp, lập quỹ bằng thóc nhằm duy trì và phát triển chăn
nuôi tập thể. Dành quỹ đất 5% để xã viên mượn dùng vào
việc phát triển chăn nuôi gia đình; đất trồng cỏ để nuôi trâu
của tập thể. Do chính sách thỏa đáng, tổng đàn lợn của các
trại tập thể đạt từ 120 - 150 con, trong đó 10% là lợn nái.
174

