Page 247 - LSDB xa Xuan Ninh
P. 247

Thông qua công tác chỉ đạo sản xuất theo cơ chế Khoán
           10, nhiều cán bộ quản lý hợp tác xã đã tích lũy được kinh
           nghiệm, mạnh dạn đổi mới, năng động, sáng tạo, dám chịu
           trách nhiệm, trình độ điều hành ngày càng tiến bộ.

              Sản xuất rau màu và cây vụ đông tuy gặp nhiều khó khăn
           nhưng cả 2 hợp tác xã vẫn giữ được diện tích trồng trọt theo
           kế hoạch. Cây công nghiệp như đay, cói, dâu tằm được duy
           trì đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng và xuất khẩu.
             Như vậy, sau 2 năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW
           của Bộ Chính trị, sản xuất nông nghiệp của xã đã giành được
           những thắng lợi quan trọng trên cả 3 mặt diện tích, năng
           suất và sản lượng. Diện tích 2 năm (1988 - 1989) tăng 3,2ha
           so  với  2  năm  (1986  -  1987).  Năng  suất  bình  quân  đạt
           68,2 tạ/ha/năm, tăng 3,1 tạ/ha so với 2 năm trước. Sản lượng
           bình quân tăng 7,2% so với 2 năm trước. Bình quân lương
           thực 2 năm (1988 - 1989) đạt 340 kg/người/năm, tăng 115kg
           so với 2 năm (1986 - 1987).
             Chăn nuôi vẫn được giữ vững, tổng đàn lợn tăng 5%, đàn
           trâu bò tăng 2%. Trước thử thách của cơ chế mới, một số cây
           công nghiệp và ngành nghề gặp nhiều khó khăn, chưa ổn
           định vững chắc.

             Đầu năm 1990, thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu
           giống lúa của huyện, các hợp tác xã và xã viên đã tích cực
           đưa giống mới có năng suất cao vào đồng ruộng. Vụ mùa
           năm 1990, 2 hợp tác xã cấy trên 50% tổng diện tích giống
           CR203, đưa năng suất bình quân đạt 77,5 tạ/ha, là năm có
           năng suất cao nhất từ trước đến nay.

             Qua sơ kết 2 năm thực hiện Khoán 10, cả 2 hợp tác
           xã còn những tồn tại cần khắc phục là: Chưa tận dụng,

                                                                      247
   242   243   244   245   246   247   248   249   250   251   252