Page 211 - LSDB huyen Xuan Truong
P. 211

quan tâm chỉ đạo, nhất là những tuyến đê xung yếu. Năm 1969 -
            1970, toàn huyện đã đắp đê đạt 102% kế hoạch. Năm 1971, có
            nhiều bão lũ, đặc biệt cơn bão số 9 đã làm sạt lở nhiều tuyến đê;
            huyện đã nhanh chóng tập trung lực lượng người, vật liệu để tu
            bổ, hàn gắn, bảo đảm an toàn đê, kè. Công tác thủy lợi nội đồng
            chuyển biến tích cực. Hàng chục công trình xây đúc được hoàn
            thành, hàng triệu mét khối đất được đào đắp. Hệ thống tưới tiêu
            được quản lý chặt chẽ; việc đóng, mở cống được quy định cụ thể, vì
            thế đã hạn chế được hiện tượng nước mặn xâm nhập và đưa được
            một lượng phù sa lớn vào đồng ruộng. Trong phong trào làm thủy
            lợi đã xuất hiện những điển hình như Xuân Hồng, là xã được
            công nhận có phong trào khá nhất huyện. Năm 1971, tập trung
            sức của cả huyện đào sông Xuân Thủy từ cống Hạ Miêu (Xuân
            Thành) xuống sông Cồn 5 ven biển để dẫn nước ngọt thau chua
            rửa mặn, cải tạo đất nhiễm mặn... Bên cạnh những thành tích
            đó, công tác thủy lợi cũng còn một số hạn chế: việc quản lý, khai
            thác các công trình hiệu quả thấp, một số hợp tác xã chưa có đội
            thủy lợi chuyên môn.
               Các ngành tiểu thủ công nghiệp có nhiều chuyển biến, hầu hết
            các năm đều vượt chỉ tiêu kế hoạch; năm 1972 tăng 17,2% so với
            năm 1971. Để giải quyết việc làm cho xã viên và tạo ra nông cụ
            phục vụ sản xuất, các hợp tác xã đều có tổ mộc, rèn. Các loại máy
            móc phục vụ nông nghiệp như máy bơm, máy vò, máy xay xát,
            bơm thuốc trừ sâu được trang bị ngày càng nhiều. Ngành thủ
            công ngày càng có nhiều sản phẩm phục vụ đời sống nhân dân
            như: dệt vải, dệt chiếu, làm gạch ngói. Năm 1972, nghề dệt chiếu
            tăng 89,9% so với năm 1969, tiêu biểu như xã Xuân Nghĩa, Xuân
            Vinh, Xuân Phương. Số lượng gạch sản xuất năm 1972 tăng gấp
            đôi năm 1969. Ngoài ra, còn có nghề dệt vải ở Hành Thiện.

               Về giao thông, huyện đã chỉ đạo mở rộng, cải tạo các tuyến
            đường  giao  thông.  Hàng  trăm  chiếc  cầu  được  sửa  chữa,  nâng
            cấp. Các xã đã cải tạo được 28,3 km đường nông thôn, điển hình
            là Xuân Vinh, Xuân Đài. Trên lĩnh vực vận tải, các xã đã sửa
            chữa được 188 tàu, thuyền (trọng tải 665 tấn) bình quân một đội
            sản xuất có 0,45 thuyền. Năm 1972, huyện đã huy động nhiều
            thuyền, cử cán bộ, đảng viên tham gia các chiến dịch vận tải gạo,

            210
   206   207   208   209   210   211   212   213   214   215   216