Page 301 - LSDB huyen Xuan Truong
P. 301

Với quyết tâm giành thắng lợi trên mặt trận nông nghiệp, bảo
            đảm thực hiện tốt chương trình lương thực đề ra, toàn huyện tập
            trung dồn sức cho sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh các biện pháp
            thâm canh, làm tốt khâu giống, bảo vệ thực vật, phân bón, đưa
            nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát huy tác dụng
            của hệ thống thủy lợi, cải tạo đồng ruộng...

               Năm 1991 - 1995, trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, Huyện
            ủy sớm có chủ trương cách mạng về giống lúa, đổi mới cơ cấu mùa
            vụ, mở rộng diện tích cấy lúa trên diện tích mạ; chỉ đạo chặt việc
            quy vùng, thực hiện quy trình thâm canh, nâng độ đồng đều về
            năng suất lúa giữa các vùng, các hợp tác xã.

               Các  giống  lúa  có  năng  suất  cao  được  chỉ  đạo  đưa  vào  đồng
            ruộng.  Mỗi  hợp  tác  xã  đều  có  một  đội  nhân  lúa  giống.  Với  sự
            giúp đỡ của chuyên gia Trung Quốc, huyện đã chỉ đạo xây dựng
            thành công vùng sản xuất lúa lai F1 của Trung Quốc tại Hợp tác
            xã Xuân Kiên; từ đó tự túc được một phần giống lúa lai, hạn chế
            nhập từ nước ngoài. Xuân Kiên trở thành 1 trong 3 điểm nhân
            giống lúa lai của tỉnh. Những năm 1991 - 1995 là thời gian huyện
            quyết định chuyển dịch mạnh cơ cấu giống, kiên quyết đưa những
            giống lúa có năng suất cao thay thế các giống cũ. Các giống cũ
            có năng suất thấp như nếp trằn... cơ bản bị xóa bỏ. Nhiều xã đã
            cấy 100% diện tích lúa lai F1 nên năng suất, sản lượng hằng
            năm tăng nhanh. Đây cũng là thời kỳ nhảy vọt về năng suất, sản
            lượng lúa của huyện, được tỉnh và Bộ Nông nghiệp đánh giá cao;
            đã thu hút nhiều đoàn khách quốc tế và các tỉnh bạn đến tham
            quan, học tập, rút kinh nghiệm. Năng suất lúa bình quân toàn
            huyện những năm 1991 - 1995 đạt 10,63 tấn/ha/năm. Sản lượng
            lương thực bình quân trong 5 năm (1991 - 1995) đạt 180.000 tấn,
            gấp 2 lần so với năm 1987. Tốc độ tăng trưởng bình quân 13,3%/năm.
            Bình quân lương thực đầu người năm 1995 đạt 504 kg thóc. Đây
            là  thời  kỳ  đầu  tiên  huyện  đạt  bình  quân  10  tấn  thóc/ha/năm,
            đánh dấu mốc phát triển lịch sử của nền nông nghiệp huyện.

               Về chuyển dịch cơ cấu mùa vụ: Việc cấy lúa trên chân mạ cả 2
            vụ đã trở thành nền nếp tập quán của hộ xã viên ở tất cả các hợp
            tác trong huyện. Vì vậy, riêng số thóc cấy trên diện tích chân mạ

            300
   296   297   298   299   300   301   302   303   304   305   306