Page 198 - LSDB xa Xuan Thanh
P. 198
Hợp tác xã mở các lớp tập huấn đội cấy chuyên môn, chú
trọng đào tạo lớp thanh thiếu niên. Thời vụ gieo cấy được
các hợp tác xã đặc biệt chú ý, thực hiện nghiêm lịch gieo
cấy, phong trào làm phân hữu cơ được đẩy mạnh: trồng điền
thanh ở ven đường, ven sông, bờ mương máng trồng điền
thanh mô xen kẽ trong lúa, hầu hết các cánh đồng trong xã
được thả kín bèo dâu... Nhiều gia đình có hố xí hai ngăn và
chuồng lợn lát nền để tăng nguồn phân bón. Ruộng cấy xong
phải được sục bùn ba đợt trở lên, bón phân đúng kỹ thuật,
đúng thời vụ. Phương pháp bón phân bằng cách trộn phân
đạm với đất bột vo viên dúi gốc lúa được quan tâm chỉ đạo
và phát triển. Mỗi đội sản xuất có một nhà chế biến phân để
chăm bón. Năng suất lúa liên tục tăng qua các năm, năm
1970 đạt 5,72 tấn/ha.
Phong trào trồng màu, trồng cây công nghiệp như: đay,
dâu... tiếp tục được đẩy mạnh, tăng cả về diện tích, năng
suất và sản lượng. Vùng màu của các hợp tác xã hằng năm
trồng theo công thức: lúa mùa - khoai tây - lúa xuân; khoai
tây - đay - lúa mùa hay lúa sớm - khoai 3 tháng - lúa xuân.
Xã viên sử dụng tốt đất 5% để trồng màu, tăng vụ khoai lang
ngắn ngày, khoai tây; tận dụng bờ ao, bờ sông, mương máng
trồng khoai nước, thả bèo. Hằng năm xã thu hoạch đay từ
70 - 80 tấn.
Sản lượng màu tăng, tạo điều kiện cho chăn nuôi phát
triển. Các hợp tác xã đều có trại chăn nuôi lợn tập trung,
đàn lợn của mỗi trại thường xuyên từ 150 - 200 con, trong đó
có 4 - 5 lợn nái lai kinh tế. Gia đình xã viên trung bình nuôi
2 con lợn và cứ 5 gia đình có 1 lợn nái để cung cấp lợn giống
cho xã viên. Mạng lưới thú y được tổ chức từ hợp tác xã đến
đội sản xuất, định kỳ tiêm phòng 6 tháng 1 lần cho đàn lợn,
197