Page 433 - Tiếng Việt Tuyệt Vời
P. 433

Tiếng Việt Tuyệt-Vời  Đỗ Quang-Vinh

            Ngôn-ngữ  có  nhạc  là  do  cách  sử-dụng  từ  sao  cho  réo-rắt,
            đấy  là  cách  gieo  bình  và  trắc-thanh,  sao  cho  êm-ái  du-
            dương, đấy là cách ngắt nhịp, lựa chọn âm-vận.

            Người  Việt  ngâm  thơ  mà  người  ngoại-quốc  nói  là  hát  thơ.
            Nói như thế không sai. Khi ngâm thơ, ta thưởng-thức giọng
            ngâm và điệu ngâm. Ngâm thơ là phổ nhạc vào thơ, một thứ
            nhạc đã được chế sẵn để chuyên-chở ý thơ, cũng hệt như
            ngâm vọng cổ một bản mà lời chẳng có gì làm sâu-sắc văn-
            vẻ cho lắm nếu đem đọc lời của bản nhạc này. Vậy khi nói
            đến nhạc của thơ, là nói đến đọc thơ. Đọc thơ lột hết
            được tính nhạc của thơ tự nó đã có sẵn trong lời thơ.

            Nói như vậy là muốn nói đến thơ tự-do, thơ xuôi, tuy là
            vay  mượn  hình-thức  thơ  Tây,  nhưng  nếu  không  có  nhạc
                                                        .
            trong thơ, thì chẳng hoá ra là thơ ngoại-lai Thơ không có
            nhạc mà chỉ chuyên-chở ý-tưởng, đúng hơn chỉ là một bài
            dịch thơ sang tiếng Việt hơn là một bài thơ Việt. Nói là vay
            mượn, chứ thực ra trước khi ta có thơ xuôi gần đây, thì từ
            thuở  xa  xưa,  ta  đã  có  văn  biền-ngẫu  qua  những  bài  văn-
            sách, kinh-nghĩa của lối khoa-cử. Và trước khi du-nhập thơ
            tự-do của Tây-phương thì ca-dao với lối hát xẩm, ta cũng đã
            có thơ tự-do rồi, một thứ thơ tự-do với nhịp phách và cước-
            vận như của thơ Tây, lại còn mang tính dân-tộc với cung bậc
            thanh-âm rộn-ràng và với yêu-vận gieo ở lưng chừng câu.
            Như bài sau đây:
                           Ba mươi Tết, lại ba mươi Tết,
                           Vợ thằng Ngô đốt vàng cho chú khách
                           Một tay cô cầm cái dù rách
                           Một tay cô xách  cái chăn bông
                           Cô ra bờ sông


                                          432
   428   429   430   431   432   433   434   435   436   437   438