Page 369 - Con duong xuat duong cua TBT Tran Phu
P. 369
Quãng Ngãi. Thân phụ là ông Trần Văn Phổ sinh năm Ất Sửu
(1865), đậu Tú tài khoa Nhâm Ngọ đời vua Tự Đức (1882), đậu
Giải nguyên khoa Đinh Dậu đời vua Thành Thái (1897), được
bổ làm Tri huyện Đức Phổ, tỉnh Quãng Ngãi.
Thân mẫu Trần Phú là bà Hoàng Thị Cát, con Chánh bát
phẩm Hoàng Đức Triêm ở xã Châu Dương, huyện Nghi Lộc,
tỉnh Nghệ An.
Ông Trần Văn Phổ và bà Hoàng Thị Cát sinh hạ được 8
người con, Trần Phú là con thứ 7, có 2 người mất sớm là bà
Trần Thị Chít và ông Trần Văn Cương. Các người con còn lại
có nhiều người đỗ đạt và có tinh thần yêu nước, chống Pháp,
tiêu biểu là: Trần Dương, anh trai Trần Phú, sinh năm Mậu
Tuất (1898), giữ chức Phán sự Hàn lâm thị giảng; em trai Trần
Ngọc Danh, sinh năm Mậu Thân (1908), hoạt động cách mạng
từ những năm 1930 - 1931, từng là Xứ ủy viên Nam Kỳ, bị
Pháp kết án khổ sai chung thân, sau này là đại biểu Quốc hội
khóa I. Năm 1946, ông Danh tham dự Hội nghị Phôngtennơblô
và được cử làm Trưởng phái đoàn đại diện Chính phủ Việt
Nam tại Pháp đến năm 1949” . Năm 1951, ông về chiến khu
(1)
Việt Bắc phụ trách Nhà xuất bản Sự thật (nay là Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia Sự thật) và mất tại đây vào năm Nhâm
Dần (1952).
Sau khi đỗ Giải nguyên, ông Trần Văn Phổ được bổ làm
Giáo thụ huyện Đức Thọ. Năm 1901, ông được điều chuyển
làm Giáo thụ huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên mang theo cả gia
đình và đồng chí Trần Phú được sinh ra tại đây (thôn An Thổ,
xã An Dân). Đầu năm 1907, triều đình Huế lại bổ nhiệm ông
Phổ làm Tri huyện Đức Phổ, tỉnh Quãng Ngãi. Là một nhà
nho có nhân cách, chí khí lại làm quan trong bối cảnh nước
mất nhà tan, ông Phổ cảm thấy bất lực, bế tắc không lối thoát
(1) Chương trình viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước:
Trần Phú - Tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.21, 22, 23.
368

