Page 26 - LỜI GIỚI THIỆU
P. 26
nhanh chóng. Năm 2005, toàn huyện có 200 phương tiện với
tổng công suất 5.884 CV, đến năm 2010 có 502 phương tiện
với tổng công suất 8.670 CV, trong đó có những tàu công suất
lớn, phương tiện hiện đại có thể khai thác dài ngày trên biển.
Nhờ định hướng đúng và sự đầu tư của Nhà nước, của
tỉnh và của huyện cũng như nỗ lực của ngư dân, khai thác
thủy hải sản ngày càng phát triển, tốc độ tăng trưởng nhanh,
1
năm sau luôn cao hơn năm trước . Năm 2005, sản lượng khai
thác đạt 4.500 tấn, đến năm 2010 sản lượng khai thác đã tăng
gấp hơn 3 lần, đạt 14.800 tấn, bằng 305% kế hoạch. Lĩnh vực
khai thác chủ yếu là cá, mực, tôm, sứa và hải sản các loại đem
lại nguồn thu nhập khá cao và ổn định cho ngư dân. Kết quả
này phản ánh sự tăng trưởng nhanh và bền vững trong khai
thác hải sản của huyện, đúng với định hướng của Đảng bộ.
Vươn ra khai thác trên biển, Đảng bộ, chính quyền huyện
chỉ đạo tập trung khai thác nhiều loại hải sản, nhuyễn thể sẵn
có trên địa bàn, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao
động, mỗi năm thu nhập tăng hàng chục tỷ đồng.
Cùng với việc khai thác thủy sản, Đảng bộ chủ trương
đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy sản. Theo đó, đẩy nhanh
tiến độ giao đất, mặt nước nuôi trồng thủy sản cho các chủ
__________
1 Năm 2007, tổng sản lượng khai thác thuỷ sản cả năm đạt khoảng 5.350 tấn,
bằng 107% kế hoạch. Năm 2008 mặc dù thời tiết không thuận lợi, nhưng sản
lượng khai thác vẫn đạt khoảng 11.250 tấn, bằng 212,2% kế hoạch, trong đó,
tôm 120 tấn, mực 400 tấn, cá 2.630 tấn, sứa 6.000 tấn, hải sản khác 2.100 tấn.
Năm 2009: Sản lượng khai thác hải sản đạt khoảng 7.200 tấn, bằng 127% kế
hoạch năm.
24