Page 30 - LỜI GIỚI THIỆU
P. 30

cây trồng, nhưng diện tích gieo cấy và sản lượng lương thực
            trung bình hàng năm tăng khá ổn định. Năm 2005, diệt tích
            lúa 204,7 ha, sản lượng lương thực đạt 580 tấn. Đến năm 2010,
            tổng diện tích gieo trồng 2 vụ đạt 263 ha (trong đó, diện tích
            lúa: 225 ha), năng suất lúa bình quân 2 vụ đạt 28,5 tạ/ha; sản
            lượng  lương  thực  đạt  642  tấn,  bằng  128,4%  kế  hoạch  năm.

            Diện  tích  rau  mầu  các  loại  đạt  tới  hàng  chục  ha  mỗi  năm,
            mang lại thu nhập khá ổn định cho nông dân và tự túc được
            một phần rau xanh trên đảo.
                Đồng  bộ  với  trồng  trọt,  Đảng  bộ  chủ  trương  từng  bước

            phát triển chăn nuôi vững chắc. Cô Tô là địa bàn có lượng lưu
            chuyển lớn, trong đó nhiều loại thực phẩm đưa ra từ đất liền,
            nguy cơ lây lan dịch bệnh rất cao. Bởi vậy, mấu chốt của thành
            công trong chăn nuôi là bảo đảm an toàn dịch bệnh. Nhận thức
            được điều đó, các đơn vị chức năng tập trung làm tốt công tác
            phòng chống dịch bệnh, kiểm soát chặt chẽ việc vận chuyển
            lưu thông gia súc, gia cầm từ địa phương khác vào địa bàn và

            các  cơ  sở  giết mổ.  Đồng thời,  hằng  năm  đều  tiến  hành  tiêm
            phòng từ 1 đến 2 đợt cho đàn gia súc, gia cầm. Bên cạnh đó,
            một số mô hình trang trại chăn nuôi được khuyến khích, hỗ trợ
            phát triển, mang lại hiệu quả cao, sản phẩm ngày càng mang
            tính hàng hóa. Nhiều hộ gia đình nuôi hàng trăm con gà một
            lứa, hàng chục con lợn lai, chăn thả gia súc như trâu, bò, dê,…

            Năm 2005, toàn huyện có đàn lợn 2.350 con, đàn trâu 255 con,
            đàn bò 497 con, đàn dê 135 con, gia cầm 15.000 con. Đến năm
            2010, toàn huyện có đàn lợn 2.500 con, đàn trâu 215 con, đàn
            bò 420 con, đàn gia cầm 16.200 con.


            28
   25   26   27   28   29   30   31   32   33   34   35