Page 33 - LỜI GIỚI THIỆU
P. 33

như các địa phương khác. Công nghiệp của huyện chủ yếu là
           công nghiệp sản xuất điện, nước; công nghiệp khai thác như
           khai thác cát, đá xây dựng và công nghiệp chế biến: chế biến
           nước mắm, chế biến sứa, sản xuất muối... tập trung phục vụ
           nhu cầu đời sống nhân dân trên đảo.

               Do chưa có điện lưới quốc gia, đối với Cô Tô trong những
           năm trước mắt việc đảm bảo nguồn điện tại chỗ có ý nghĩa
           đặc biệt quan trọng trên cả phương diện kinh tế - xã hội và
           quốc  phòng,  an  ninh.  Trong  khi  đó,  sản  xuất  điện  gặp  rất

           nhiều khó khăn về phương tiện máy móc, mạng lưới và nhiên
           liệu. Trước tình hình đó, Huyện ủy chỉ đạo tập trung nguồn
           lực cải tạo nâng cấp hệ thống điện trung tâm, đồng thời phát
           huy tối đa công suất để phục vụ một cách tốt nhất có thể nhu
           cầu sử dụng điện phục vụ quốc phòng - an ninh, thông tin
           liên  lạc,  y  tế,  các  cơ  sở  kinh  tế  trọng  yếu  và  sinh  hoạt  của
           người dân. Hàng năm sản lượng điện sản xuất tăng nhanh.
           Năm 2005, sản lượng điện là 288.665 KW, doanh thu đạt 442

           triệu đồng, đến năm 2009 tăng lên 536.771 KW, doanh thu đạt
           1.928,5 triệu đồng (không kể phần  hỗ trợ từ ngân  sách nhà
           nước). Ngoài ra, các cơ quan, đơn vị kinh tế và một số hộ dân
           cũng đầu tư mua máy phát điện để chủ động hơn trong công
           tác,  sản  xuất  và  sinh  hoạt.  Trung  tâm  quản  lý  điện  nước  -
           cảng phối hợp với các cơ quan chức năng thường xuyên tổ

           chức  tuyên  truyền,  hướng  dẫn  sử  dụng  điện  an  toàn,  tiết
           kiệm, hiệu quả.
               Cùng với việc tăng cường sản xuất điện, hàng năm Cô Tô
           cung cấp 1.000 tấn than bùn, vừa phục vụ chất đốt cho nhân


                                                                        31
   28   29   30   31   32   33   34   35   36   37   38