Page 256 - Giao trinh quoc phong & an ninh
P. 256

ngay cả khi thủy triều dâng cao nhất. Độ cao của đảo có thể thay đổi từ vài mét

          đến vài nghìn mét.

                 -  Quần đảo: thường được chỉ một nhóm đảo năm gần nhau và chiếm một

          vùng biển có diện tích không hạn chế (ví dụ quần đảo Indonesia có diện tích hàng
                     2
                                                                                                         2
          triệu km , quần đảo Trường Sa của Việt Nam có diện tích gần 200.000km ).
                                                                                                    2
                 - Hòn: thường được dùng chỉ các đảo có diện tích nhỏ dưới Ikm và độ cao
          cũng thấp hơn so với đảo (ví dụ Hòn Tre, Hòn Trứng Lớn....).

                 - Bãi: thường được dùng chỉ một vùng đất nhô lên khỏi mặt nước khi thủy

          triều xuống và bị ngập nước khi thủy triều lên.

                 - Bãi ngầm: thường được chỉ những khu vực có kích thước đáng kể bị ngập

          dưới mặt nước tương đối sâu, có thể tới vài chục mét hoặc hàng trăm mét.

                 - Đảo san hô: là loại hình đảo được tạo thành từ san hô. Trong quá trình

          thành tạo, san hô tụ họp với nhau, tiết ra chất đá vôi tạo nên những “cây” san hô

          không ngừng sinh sôi nầy nở.


                 1.2.2.  Chế độ pháp lý trong Luật Biển Việt Nam (Luật số 18/2012/QH13)

                 Bằng việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982

          vào ngày 23-6-1994 (Công ước có hiệu lực từ ngày 16-11- 1994), Việt Nam đã tỏ
          rõ ý chí thực hiện các quyền trong các giới hạn cho phép của Công ước, có tính

          đến quyền tự do của các quốc gia khác. Cùng với việc phê chuẩn Công ước Luật

          biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Việt Nam cũng phê chuấn một số Công ước

          biển chuyên ngành về Hàng hải quốc tế về IMO, Công ước SOLAS về cứu hộ

          trên biển, London 1-11-1974, Công ước về mớn nước, Công ước MARPOL ngày
          2-11-1973 và phần bổ sung năm 1978 về phòng, chống ô nhiễm biển.


                      Trong Luật Biển Việt Nam và các văn bản pháp lý khác, các vùng biển
               Việt Nam được quy định trên cơ sở các công ước đã phê chuẩn và có những

               quy định cụ thể như sau:

                     *  Vùng nước nội thủy


                      Theo định nghĩa trong Tuyên bổ của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội
               chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dùng để tỉnh chiều rộng lãnh hải, năm

               1982 tại điểm 5: “Vùng nước phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển, hải





                                                                                                      279
   251   252   253   254   255   256   257   258   259   260   261