Page 44 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 44
44 Ñòa chí Quaûng Yeân
Mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau) có lượng mưa nhỏ, tổng lượng mưa chỉ
chiếm 202,7 mm, nhỏ nhất vào tháng 12 và tháng 01 hằng năm.
Thông qua chỉ số về số ngày mưa và lượng mưa trung bình của một ngày mưa (lượng
mưa ngày) đã phản ánh rõ rệt cường độ mưa. Số ngày mưa trung bình hằng năm ở thị
xã Quảng Yên khoảng 160 - 170 ngày mưa.
2.2. Độ ẩm
Độ ẩm không khí hằng năm ở thị xã Quảng Yên khá cao, trung bình 81%. Độ ẩm
tương đối cao, nhất là vào các tháng mưa phùn nhiều (tháng 3 và tháng 4) lên đến 86%,
tháng có độ ẩm thấp nhất thường vào đầu mùa đông (tháng 10 và tháng 11).
Biến đổi tuần hoàn ngày của độ ẩm tương đối gần như trái ngược với nhiệt độ. Ban
ngày độ ẩm thấp, thấp nhất từ khoảng 12 giờ trưa đến 15 giờ chiều. Ban đêm độ ẩm
tương đối cao, nhất là khoảng thời gian từ 4 giờ đến 6 giờ sáng.
Biến trình năm của độ ẩm tương đối vừa chịu ảnh hưởng của nền nhiệt độ vừa chịu
tác động của mùa mưa và sự chênh lệch độ ẩm không khí tương đối giữa các vùng trong
thị xã không lớn, phụ thuộc vào độ cao, địa hình và sự phân hóa theo mùa.
2.3. Lượng bốc hơi
Lượng bốc hơi phụ thuộc vào các yếu tố khí hậu như: nhiệt độ không khí, nắng, mưa,
gió, độ ẩm... Lượng bốc hơi tại khu vực thị xã Quảng Yên tương đối thấp, trung bình năm
561 - 912 mm. Mùa hè, lượng bốc hơi cao, cao nhất vào tháng 6 và tháng 7 đạt 94 - 97 mm.
Mùa đông tương đối thấp, thấp nhất vào các tháng cuối mùa, nhiều mưa phùn, vào
tháng 02, tháng 3, lượng bốc hơi trung bình chỉ 55 - 57 mm.
Biến trình năm của lượng bốc hơi vừa có nét tương đồng với biến trình nhiệt độ năm,
vừa chịu ảnh hưởng của yếu tố mưa.
3. Chế độ gió
Thị xã Quảng Yên nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của hoàn lưu gió mùa Đông
Nam Á. Đặc điểm nổi bật của hoàn lưu gió mùa là sự tương phản sâu sắc về tính chất,
cường độ hoạt động của các khối khí thịnh hành và các dạng thời tiết đặc trưng giữa gió
mùa mùa đông và gió mùa mùa hạ.
Vào mùa đông, khu vực thị xã Quảng Yên chịu ảnh hưởng chủ yếu của khối không
khí cực đới biến tính được hình thành từ cao áp Xibia. Gió mùa đông bắc hoạt động từ
khoảng tháng 11 đến tháng 4 năm sau, hướng gió chủ yếu là Bắc và Đông Bắc, gió đông
bắc thổi mạnh nhiều đợt, mỗi đợt 4 - 6 ngày. Tốc độ gió lên đến cấp 5 - 6 (tương đương
8 - 13 m/s), ngoài khơi có thể lên tới cấp 7 - 8. Đặc biệt gió mùa đông bắc tràn về thường
lạnh, giá rét ảnh hưởng đến mùa màng, gia súc và sức khỏe con người.
Vào mùa hè, gió mùa mùa hạ bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 9 thịnh hành gió nam và
đông nam, gió thổi từ vịnh vào mang theo nhiều hơi nước. Tốc độ gió trung bình 2 - 4 m/s
(cấp 2 - 3). Bắt đầu từ tháng 5 gió nam và đông nam thổi mạnh, tốc độ trung bình 4 m/s,
gây mưa nhiều, độ ẩm lớn.
Thời kỳ chuyển tiếp khí hậu chi phối các khối khí giảm, thường xuất hiện hoạt động
của gió biển - đất với vận tốc khoảng cấp 3, cấp 4, ban ngày có gió thổi từ biển vào đất
liền, ban đêm có gió thổi ngược lại từ đất liền ra biển.