Page 616 - Trinh bay Dia chi Quang Yen final
P. 616

Phaàn V: Vaên hoùa - Xaõ hoäi    615



                  Theo như gia phả của dòng họ Vũ chép lại và bổ sung từ thời Nguyễn (thời vua Minh
               Mạng), gia đình cụ Vũ Song có 3 anh em: Vũ Nhất Công là anh cả, Vũ Song là thứ hai,
               Vũ Tam Tỉnh là em út. Ban đầu, cả 3 anh em cùng đến khai canh, nhưng cụ Vũ Nhất
               Công ở lại được 3 năm thì về quê, còn cụ Vũ Song và cụ Vũ Tam Tỉnh ở lại. Về sau, cụ
               Vũ Song được triều đình nhà Nguyễn phong là “Dực bảo Trung hưng linh phù tôn thần”
               cùng 16 cụ khác. Trong đó, tên cụ Vũ Song được ghi đầu tiên trong danh sách các vị
               Tiên Công .
                          (1)
                  Nhà thờ họ Vũ xưa kia được dựng từ đời thứ 6 của dòng họ (khoảng năm 1630). Trải
               qua nhiều lần trùng tu, đến nay nhà thờ có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Nhị (二), gồm
               tiền đường và hậu cung. Nhà tiền đường có 5 gian, 2 chái, kết cấu vì kèo kiểu giá chiêng
               tứ hàng chân, các rường được chạm khắc nổi hoa văn hình hoa lá cách điệu, các đấu
               hình vuông chạm nổi hoa sen, cột trốn bào trơn, hai câu đầu đều chạm nổi hình hoa lá
               lật uốn lượn, toàn bộ phần mái mới được sửa chữa, lợp ngói tây. Hậu cung gồm 5 gian,
               2 chái được nối thông với tiền đường, kết cấu vì kèo kiểu giá chiêng tứ hàng chân, các
               rường được chạm nổi uốn lượn vân xoắn cuộn đơn giản, một số chi tiết chạm nổi kênh
               bong, trang trí hình rồng, mây uốn lượn.
                  Nhà thờ hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị như: hương án, khám thờ,
               hoành phi, câu đối, 5 quyển gia phả từ thời Nguyễn vào các đời vua Minh Mạng, Tự Đức
               và Duy Tân, ghi chép lại đầy đủ từ cụ thủy tổ đời thứ nhất đến các thế tổ đời thứ 21 của
               dòng họ và công lao cống hiến, tước vị hiển vinh đỗ đạt của từng người trong lịch sử .
                                                                                                       (2)
                  Nhà thờ là không gian sinh hoạt chung, nơi con cháu tiến hành các hoạt động tế lễ
               của dòng họ như: giỗ tổ; Thanh minh tạ mộ tổ; chạp tổ và tế tổ. Đây cũng là nơi giáo dục
               con cháu luôn hướng về cội nguồn, khơi gợi niềm tự hào về dòng tộc.

                  Với những giá trị trên, nhà thờ họ Vũ (Thủy tổ: Vũ Song) được Bộ Văn hóa - Thông
               tin xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia theo Quyết định số 51/2001/QĐ-BVHTT
               ngày 27/12/2001.

                  2.19. Nhà thờ họ Vũ (Thủy tổ: Vũ Tam Tỉnh)

                  Nhà thờ họ Vũ ở phường Yên Hải, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Công trình là
               nơi thờ Thủy tổ dòng họ Vũ là cụ Vũ Tam Tỉnh  và các thế tổ kế tiếp của dòng họ. Nhà
                                                                (3)
               thờ xây dựng từ đời thứ 6 của dòng họ (khoảng năm 1630) trên một khu đất cao, thoáng.
               Qua nhiều lần trùng tu, nhà thờ ngày càng khang trang, bề thế hơn.

                  Nằm trong khuôn viên rộng 1.338 m , nhà thờ họ Vũ quay hướng Nam, có kiến trúc
                                                         2
               chữ Nhị (二), gồm tiền đường và hậu cung, mái lợp ngói tây. Phía trước tiền đường là
               tam quan, cửa ra vào hai bên xây 2 tầng 8 mái, cửa giữa xây cột trụ đèn lồng búp sen
               tượng trưng cho sự tinh khiết trong sạch, 2 góc tường phía trước xây 2 cột trụ đèn lồng
               đắp quả dành dành tượng trưng cho con cháu đông đúc và tấm lòng son sắt thủy chung.
               Tiếp đến là khoảng sân rộng 200 m , tường bao lát gạch xung quanh.
                                                    2
               (1)  Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Ninh: Lý lịch di tích từ đường họ Vũ, 2001, tr.5.
               (2)  Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Ninh: Lý lịch di tích từ đường họ Vũ, tlđd, tr.23.
               (3)  Cụ Vũ Tam Tỉnh làng Đồng Lầm, thành Thăng Long (nay là phường Kim Liên, thành phố Hà Nội)
               cùng 16 vị Tiên Công khác sắm thuyền xuôi dòng Sông Hồng đến cửa sông Bạch Đằng quai đê lấn
               biển lập nên làng năm 1434.
   611   612   613   614   615   616   617   618   619   620   621