Page 620 - Trinh bay Dia chi Quang Yen final
P. 620

Phaàn V: Vaên hoùa - Xaõ hoäi    619



                  Nhà thờ họ Lê lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị nghệ thuật cao, tiêu biểu cho nghệ
               thuật gốm sứ thời Lê cùng nhiều đồ thờ tự bằng đồng thời Nguyễn như: bức đại tự chữ
               Hán sơn son thếp vàng, câu đối, án gian, chân nến gỗ, bình gốm sứ, y môn vải, cửa võng,
               khám thờ sơn son thếp vàng... đặc biệt là 3 cuốn gia phả . Đây được coi là nguồn tư liệu,
                                                                         (1)
               hiện vật quý phục vụ công tác nghiên cứu lịch sử, mỹ thuật, văn hóa, đồng thời giáo dục
               truyền thống, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhu cầu
               tham quan, du lịch của địa phương.
                  Nhà thờ họ Lê là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dòng
               họ. Những ngày lễ chính tại nhà thờ họ Lê là: ngày giỗ của cụ thủy tổ, thế tổ, ngày “ra
               cỗ họ” (từ ngày mùng 3 - 5 tháng Giêng). Ngoài những ngày lễ chính, những ngày lễ tiết
               theo phong tục của Việt Nam như: rằm tháng Giêng, Thanh minh, tết Đoan ngọ... con
               cháu trong dòng họ đều có hương hoa dâng lên tiên tổ. Đây là dịp tụ hội của cả họ, nhắc
               nhở con cháu hướng về cội nguồn, nêu cao tinh thần đoàn kết trong cộng đồng, cùng
               nhau xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp hơn.
                  Với giá trị về mặt lịch sử - văn hóa, ngày 16/11/2005, Bộ Văn hóa - Thông tin ban
               hành Quyết định số 74/2005/QĐ-BVHTT xếp hạng nhà thờ họ Lê (Thủy tổ: Lê Phúc Hy)
               là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.

                  2.22. Nhà thờ họ Phạm (Thủy tổ: Phạm Thanh Lảnh)

                  Nhà thờ họ Phạm tên chữ là “Phạm từ đường”, tọa lạc tại xã Liên Vị, thị xã Quảng
               Yên. Nhà thờ được xây dựng từ năm 1714, là nơi thờ Thủy tổ Phạm Thanh Lảnh - người
               gốc Thái Bình đã có công khai phá, quai đê lấn biển lập nên làng Vị Khê. Đến đời thứ 5,
               cụ Phạm Hữu Tài đã giúp nhân dân đóng thuế đinh, thuế điền, cùng nhân dân xây dựng
               chùa Vị Khê, đình Vị Khê. Ghi nhớ ơn công lao của cụ, nhân dân đã lập bia hậu thần để
               thờ phụng nên nhà thờ họ Phạm còn có tên gọi khác là “Từ đường họ Phạm Hữu”. Trải
               qua nhiều lần trùng tu, đến năm 1996, nhà thờ được tu sửa, xây thêm rộng lớn, khang
               trang như hiện nay.

                  Nhà thờ họ Phạm nằm trên một khu đất có diện tích 946,8 m , cổng xây theo kiểu tam
                                                                                 2
               quan. Cổng giữa có hai mái lưỡng nghi lợp ngói mũi hài, các góc mái có đầu đao hình lá
               lật, trên bờ nóc có đắp nổi hình lưỡng long chầu nguyệt. Nhà thờ quay hướng Nam, được
               xây dựng theo kiểu chữ Nhị (二), gồm bái đường và hậu cung. Bái đường diện tích 48 m ,
                                                                                                          2
               gồm 3 gian, 2 chái, thu hồi bít đốc, vì kèo được xây bằng gạch. Trên hai vì hồi có 6 trụ
               đấu, hai bên trước hồi có 2 trụ đèn lồng, trên đầu trụ có 2 con nghê. Gian giữa bái đường
               treo một bức đại tự ghi “Khai tất tiên”, dưới là bức cửa võng sơn son thếp vàng và một
               sập gỗ gụ. Tiếp đến là án gian có một bài vị đặt trong ngai thờ cao 98 cm và nhiều hiện
               vật đồ thờ như: bát hương, quả bồng, đôi lộc bình, trúc bản... Phía ngoài gian trái bái
               đường đặt 2 chiếc trống, 1 chiếc chiêng và 1 chiếc trướng. Phía trong là án gian bài trí
               bát hương sứ và các hiện vật đồ thờ sơn son thếp vàng. Gian phải bái đường phía trên có
               bức y môn bằng vải, phía dưới là án gian đặt bát hương. Hậu cung được xây dựng phía

               (1)  Ba cuốn gia phả gồm: bản gia phả thứ nhất ghi lại quê quán của thủy tổ, tên chữ của thủy tổ, thiếu
               tổ đến đời thứ 5, ghi nơi táng mộ và nơi lập từ đường có tựa “Thiệu Bình tam niên chính nguyệt thập
               ngũ nhật phụng soạn” (soạn ngày 15 tháng Giêng năm 1436) bằng chữ Hán; bản gia phả thứ hai bằng
               chữ Hán, không ghi rõ ngày tháng năm phụng soạn ghi chép các đời từ đời thứ 6 đến đời thứ 10; cuốn
               gia phả thứ ba ghi lại các đời từ đời thứ 11 đến đời 21 bằng chữ Quốc ngữ.
   615   616   617   618   619   620   621   622   623   624   625