Page 655 - Trinh bay Dia chi Quang Yen final
P. 655

654    Ñòa chí Quaûng Yeân



                  Tại thị xã Quảng Yên có một lượng lớn giáo dân tập trung ở làng Yên Trì (xã Hiệp
               Hòa) và xã Sông Khoai, đối với các giáo dân việc cưới xin là một trong 7 phép cơ bản
               gọi là bí tích . Đây được coi là sự nhìn nhận của Chúa với việc chung sống trọn đời của
                            (1)
               đôi nam nữ đã chọn phép rửa tội. Sau khi đã hoàn thiện các nghi lễ truyền thống như
               lễ gia tiên, xin dâu hay thành hôn, cô dâu và chú rể theo Công giáo sẽ tiến hành lễ cưới
               tại nhà thờ với các nghi thức hôn phối bắt buộc. Các nghi thức gồm: thẩm vấn, trao lời
               nguyện thề trong lễ cưới, trao nhẫn và ký tên vào sổ hôn phối. Đặc tính cơ bản nhất của
               hôn nhân Công giáo là đơn hôn (một vợ, một chồng) và vĩnh hôn (vĩnh viễn) thể hiện qua
               những ràng buộc của giáo lý: “Lễ luật buộc kẻ ở bậc vợ, chồng phải giữ một là vợ chồng
               phải ở cùng nhau mãi cho đến chết, hai là phải cứ một vợ, một chồng mà thôi”. Việc kết
               hôn giữa giáo dân với lương dân trước kia thường bị cấm kỵ, ngăn cản. Tuy nhiên, cùng
               với sự phát triển của xã hội, những quy định này không còn nữa. Nam nữ được tự do
               tìm hiểu, cưới xin và chấp hành theo đúng điều lệ, giáo lý của Công giáo và quy định
               của pháp luật.
                  Lễ cưới là một nghi lễ quan trọng trong cuộc đời con người. Ngoài việc nêu cao giá
               trị tình cảm thủy chung vẹn tròn của đôi trai gái, đám cưới còn góp phần bảo tồn tinh
               thần dân tộc, đề cao sự hiếu thảo với ông bà, tổ tiên, xây dựng con người biết tự trọng,
               tôn trọng lẫn nhau. Trải qua thời gian, phong tục, tập quán trong hôn nhân của nhân
               dân thị xã Quảng Yên có nhiều thay đổi phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội từng giai
               đoạn. Cùng với những đặc điểm chung tương đồng với phong tục, tập quán của dân tộc
               Việt Nam, nhân dân đã bảo lưu được những nét đẹp văn hóa, gìn giữ được những nét
               riêng gắn liền với điều kiện sống, lao động và sinh hoạt của dân tộc.

                  3. Phong tục, tập quán trong khao vọng, lên lão
                  3.1. Tục khao vọng

                  Khao vọng là một tập tục cũ được lưu truyền rộng rãi trong các làng quê ở Quảng Yên
               khi có người thi đỗ, được bổ nhiệm làm quan, được hưởng phẩm hàm, người lên hạng bô
               lão và người làm lý dịch.

                  Lễ vọng ở cấp làng xã phải có trầu cau, rượu đến báo với phe, giáp, các hương lý, quan
               viên. Sau khi được chấp thuận thì mới làm cỗ cúng thần linh và đãi quan viên . Người
                                                                                                  (2)
               khao dùng lễ trâu, bò, lợn, rượu, trầu cau, xôi bánh ra đình tế thần rồi biếu dân làng ăn
               mừng. Ở Quảng Yên, việc nộp tiền khao vọng cũng được ghi trong các bản hương ước,
               khoán lệ. Khoán ước tư văn xã Trung Bản xưa (nay thuộc xã Liên Hòa) quy định: “Lệ
               khao của Hội Tư văn: Người nào đỗ Tiến sĩ thì khao 1 con trâu, 3 mâm xôi, 1 vò rượu,
               1 buồng cau. Đỗ Cử nhân thì khao 1 con bò, xôi rượu cau cũng như vậy. Đỗ Tú tài thì
               khao 1 con lợn, 1 mâm xôi, 1 vò rượu, 1 buồng cau. Ngoài ra, những người được dự nhập
               vào Hội Tư văn đều phải nạp tiền khao là 5 quan và 1 buồng cau đều đem đến văn chỉ
               làm lễ tiên hiền” . Xã Vị Dương xưa (nay thuộc xã Liên Vị) có quy định: “Lệ khao vọng
                                 (3)

               (1)  Bí tích là những dấu chỉ được Chúa thiết lập và trao cho Hội Thánh để ban sự sống thần linh cho
               giáo dân.
               (2)  Phan Kế Bính: Việt Nam phong tục, Nxb. Đồng Tháp, Đồng Tháp, 1990, tr.137.
               (3)  Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Quảng Ninh: Di sản Hán Nôm tỉnh Quảng Ninh: Địa bạ - tục lệ hương ước,
               sđd, tr.921.
   650   651   652   653   654   655   656   657   658   659   660