Page 656 - Trinh bay Dia chi Quang Yen final
P. 656

Phaàn V: Vaên hoùa - Xaõ hoäi    655



               người nào được thưởng phẩm hàm, các khoản khao vọng chi phí hết 100 nguyên, làm
               Văn trưởng, Lý trưởng khao vọng chi phí hết 90 nguyên; làm Phó lý, Đoàn xã và người
               mua ngôi thứ chi phí hết 60 nguyên” ...
                                                      (1)
                  Khao vốn là tục lệ tốt đẹp để cộng đồng làng chứng kiến, chung vui với người đỗ đạt
               nhưng việc khao vọng rất tốn kém, dần bị lợi dụng để trục lợi, biến thành gánh nặng
               với người trong cuộc. Dưới thời Pháp thuộc, chính quyền thực dân Pháp tiến hành cải
               lương hương chính, đề ra quy định bỏ lệ khao làng, thay vào đó là nộp tiền (chiết can) .
                                                                                                         (2)
                  Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tục khao vọng cùng với những ngôi thứ trong
               làng xã bị xóa bỏ. Việc khao chỉ còn duy trì trong phạm vi hẹp dưới hình thức liên hoan
               sau khi đỗ đạt, thăng tiến... Hiện nay, đời sống kinh tế - xã hội của người dân có nhiều
               chuyển biến, tục khao được thực hiện dưới nhiều hình thức, những gia đình có con đỗ
               đạt học hàm, học vị có thể sắm lễ tới đình tế yết Thành hoàng làng rồi về mời người
               thân, bạn bè tới chung vui.
                  3.2. Tục lên lão

                  Xưa kia, ở Quảng Yên, nam giới đến 50 phải mở tiệc mời dân làng đến để khao lên lão.
               Lên lão là lệ gia nhập vào hàng các cụ cao tuổi có vai vế trong làng khi có đủ điều kiện
               mà làng quy định. Khi được đứng vào hàng lão sẽ được miễn mọi phu phen, tạp dịch, ra
               đình được ngồi vào chiếu trên.

                  Lên lão cũng phải khao nhưng không khó khăn như khao vọng, thông thường tuổi
               càng cao thì phần lễ trình làng càng nhẹ, miễn sao lo đủ lệ là được. Những nhà giàu
               thì nhân đây mở tiệc ăn uống, còn những nhà không có điều kiện thì chỉ cần trình làng
               rồi làm cơm kính cáo tổ tiên, con cháu về tụ họp đông đủ. Tùy từng xã mà tục lên lão
               được quy định trong khoán ước khác nhau: Ở xã Bùi Xá: “Trong xã người nào tuổi đến
               60, thì ngày mùng 7 tháng Giêng đem 1 chai rượu, 1 con gà, 1 mâm xôi và trầu cau ra
               đình bái lễ để dân đều biết, lão thì ở vào hàng lão bao nhiêu”. Xã Động Linh: “Tuân theo
               giao ước của Tiên Công trong xã, viên nào đến 60 tuổi lệ khao lão gồm có 1 cái thủ lợn,
               1 mâm xôi, trầu rượu thì tùy. Còn như tiền lệ ông cha để lại 3 đời tiền là 6 mạch mới
               phụ góp 1 đời là 3 quan, đời thứ 2 là 1 quan 8 mạch, thì chỉ sắm lễ phẩm, nếu không có
               thủ lợn hoặc gà trống cũng cho phép”. Xã Khoái Lạc: “Trong xã người nào đến 50 tuổi
               thì sắm 1 tráp trầu và 6 mạch tiền đến đình cáo lão để được miễn phu dịch. Người nào
               đến 60 thì sắm sửa 1 thúng xôi, 1 cái cổ lợn, 1 bát rượu, 100 miếng trầu đem đến đình
               làm lễ rồi biếu toàn xã, giao cho các xã dịch chiếu nhận. Dân xã mừng người đó 5 quan
               tiền”. Xã Lưu Khê: “Hằng năm ngày mùng 7 tháng Giêng nguyên tục lệ những người
               đến tuổi 60 - 70 - 80 - 90... đều 100 miếng trầu cau đến đình bái lễ để dân đều biết”. Xã
               Quỳnh Lâu quy định: “Trong xã người nào đến tuổi thượng thọ cần phải sắm 1 buồng
               cau, 1 chai rượu đem đến đình, trước là làm lễ sau là báo dân biết rõ. Lệ cầu phúc hằng
               năm hạng 70 tuổi được biếu 1 cái thủ lợn, hạng 80 tuổi được biếu 1 cái thủ lợn, hạng
               90 tuổi được biếu 1 cái thủ lợn loại to và 1 khoanh cổ lợn. Người 100 tuổi được biếu mỗi
               người 1 cái thủ lợn loại to, 3 cân thịt lợn, trái cây 10 quả, 1 mâm xôi, 1 đĩa lòng lợn

               (1)  Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Quảng Ninh: Di sản Hán Nôm tỉnh Quảng Ninh: Địa bạ - tục lệ hương ước,
               sđd, tr.955.
               (2)  Bùi Xuân Đính: Bách khoa thư làng Việt cổ truyền, sđd, tr.744.
   651   652   653   654   655   656   657   658   659   660   661