Page 708 - Trinh bay Dia chi Quang Yen final
P. 708

Phaàn V: Vaên hoùa - Xaõ hoäi    707



               ngài đã trẫm mình xuống Sông Rút và hiển linh thành thần giúp dân diệt trừ ôn dịch.
               Nhân dân trong làng tạc tượng và lập miếu thờ ngài ở gần nơi ngài thác. Từ đó về sau,
               mỗi khi nhân dân trong vùng đi sông, đi biển đều vào miếu lễ cầu rất linh ứng. Đặc biệt
               khi làng có dịch bệnh trên người, gia súc, mùa màng, cầu ngài che chở đều tai qua nạn
               khỏi. Dân làng Hưng Học tôn ngài là Đệ tam Thành hoàng - thần trừ ôn dịch và phối
               thờ thần ở đình làng.
                  Thần tích về Uy Minh Đại vương: Theo thần tích, thần phả, Uy Minh Đại vương
               tên thật là Nguyễn Đăng Minh, người huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, có công đánh giặc
               phương Bắc, trấn an vùng Đông Hải, bảo vệ nhân dân.

                  Thần tích về Bản trấn Đại vương: Bản trấn Đại vương tên thật là Nguyễn Đông
               Đô, là đời thứ 4 của dòng họ Nguyễn, Thủy tổ là cụ Nguyễn Thực - một trong những vị
               Tiên Công có công khai hoang lấn biển, lập xóm dựng làng ở khu vực đảo Hà Nam. Ngài
               là người học hành đỗ đạt và được bổ nhiệm làm quan Tham trấn trấn Chanh (quan trấn
               thủ ở trấn Chanh - tỉnh Quảng Yên, nay là thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh). Với
               vai trò là quan trấn Chanh, cụ đã đứng ra mở chợ phiên tại làng Yên Đông (phường Yên
               Hải ngày nay) để buôn bán và giao lưu hàng hóa. Nhờ đó, kinh tế trong vùng phát triển,
               đời sống của nhân dân được nâng cao về cả vật chất và tinh thần.
                  Thần tích về bà Lê Thị Tốn: Bà Lê Thị Tốn là mãnh tổ của dòng họ Lê Phúc, thôn
               Lưu Khê (nay thuộc xã Liên Hòa). Tương truyền mãnh tổ Lê Thị Tốn là người xinh đẹp
               nhất vùng, chưa lập gia thất mà phải thác oan, được nhân dân lập miếu thờ. Khi thác
               rất hiển linh, nhiều lần phù hộ dân làng. Do đó, người dân Lưu Khê mỗi khi đi sông, đi
               biển đều đến miếu cầu khấn, mong bà phù hộ.

                  1.2. Truyền thuyết
                  Truyền thuyết: là những tác phẩm tự sự dân gian. Bên trong cái vỏ thần kỳ, truyền
               thuyết hàm chứa những yếu tố gắn với lịch sử dân tộc thời kỳ dựng nước và giữ nước.
               Nội dung của truyện truyền thuyết có yếu tố song trùng với thần thoại và có những nét
               gần gũi với truyện cổ tích.

                  1.2.1. Truyền thuyết lý giải sự hình thành các địa danh

                  Truyền thuyết về hòn ông Sư bà Vãi (xã Hoàng Tân): Thuở xưa, có một ông sư
               và một bà vãi cùng tu trong một ngôi chùa. Nhưng vì bọn cướp biển luôn vào cướp bóc,
               phá nhiễu chốn cửa thiền, nhà chùa đành dời sang doi đất bên kia sông để lập chùa mới.
               Hôm ấy, bà vãi đội thúng đựng kinh sách lên đầu đi trước. Ông sư bê bình hương theo
               sau. Đang lội sông, không ngờ gặp ngay chỗ nước sâu, bà vãi vội vàng kéo váy lên cao
               kẻo ướt, ngay trước mắt sư ông. Sư ông chợt sững lại, ngất lặng hồi lâu. Bỗng ông vấp
               phải hòn đá ngầm dưới sông nên bị ngã. Chiếc bình hương văng xuống nước. Vừa lúc ấy,
               Phật Bà Quan Âm hiện lên trỏ mặt sư ông và nói: “Nhà ngươi đã đánh mất chính quả”.
               Hai người chết đứng giữa dòng và ngay sau đó biến thành hòn ông Sư bà Vãi. Chiếc bình
               hương kia mọc lên, hóa thành hòn Bình Hương.

                  Truyền thuyết về sự hình thành tên xã Sông Khoai: Tương truyền, ở Hà Bắc,
               một cô gái thương binh sĩ mai phục bị đói, nhà nghèo chỉ có khoai nên đã đội thúng khoai
               luộc, bơi qua một khúc sông, đưa sang tiếp tế. Sau chiến thắng trên sông Bạch Đằng,
   703   704   705   706   707   708   709   710   711   712   713