Page 713 - Trinh bay Dia chi Quang Yen final
P. 713

712    Ñòa chí Quaûng Yeân



                  Truyền thuyết Bà chúa Cua xã Hoàng Tân: Tương truyền, dân chài đang đánh
               cá trên sông Hòn Dáu  (xã Hoàng Tân) bỗng thấy một đàn cua bể lớn kết thành bè,
                                       (1)
               trên bè cua là xác một người con gái bị chết đuối. Cô gái có khuôn mặt đẹp tuyệt trần,
               sắc mặt hồng hào như còn sống. Bè cua từ từ đưa xác cô gái vào chân Hòn Dáu. Những
               người dân chài thấy hiện tượng lạ bèn đưa xác cô gái lên chôn cất trên Hòn Dáu và lập
               miếu thờ ngay trên vách núi cao nhìn xuống sông. Do không biết tên tuổi bà nên mọi
               người gọi là Bà chúa Cua. Sau khi lập miếu thờ, những người dân chài trong khu vực
               vào tuần, rằm đến miếu làm lễ, cầu gì được nấy rất ứng nghiệm. Người dân Hoàng Tân
               hằng ngày đi chài ở khu vực đều vào miếu Bà chúa Cua làm lễ thì buổi đi hôm đó được
               nhiều tôm, cua, sò, ốc... Từ đó, ngôi miếu nổi tiếng linh thiêng, nhân dân Hoàng Lỗ và
               dân chài trong vùng đi sông, đi biển, thậm chí là làm ăn trên rừng hoặc nơi xa đều đến
               miếu cầu xin rất ứng nghiệm.

                  Nhân dân Hoàng Lỗ còn tin rằng Bà chúa Cua linh thiêng đã giúp cho du kích Hoàng
               Lỗ phục kích tiêu diệt đoàn tàu chở quân của thực dân Pháp từ bến Yên Cư ra biển.
               Trong trận này, du kích Hoàng Lỗ đã thu được 1 tàu, 2 bọc sắt, 2 súng phóng đạn, 3 súng
               máy, nhiều tiểu liên, quân trang quân dụng, bắt sống 26 sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp,
               làm nức lòng quân dân khu Việt Bắc. Cũng từ đó, nhân dân Hoàng Lỗ có tục gọi con cua
               là con cáy. Đi ngòi cua phải nói là đi ngòi cáy để tránh húy Bà chúa .
                                                                                      (2)
                  1.2.4. Truyền thuyết về tổ nghề

                  Nghề đan ngư cụ ở Hưng Học: Nghề đan ngư cụ được hình thành khoảng giữa thế
               kỷ XV. Tương truyền, cụ tổ nghề thuộc dòng họ Đặng, tên là Đặng Húy Đôn, người vùng
               Thanh Hà. Cụ di cư về đảo Hà Nam sinh sống, nhận thấy vùng bãi triều ven biển nhiều
               tôm, cua, cá... cụ đã sáng tạo ra các loại lờ, đăng, đó để đánh bắt hải sản và truyền nghề
               cho con cháu dòng họ, cho nhân dân trong làng để tăng thêm thu nhập lúc nông nhàn.

                  Nghề đóng thuyền vỏ gỗ: Tư liệu về tên các tổ nghề cũng như năm ra đời của nghề
               không còn, nhân dân địa phương không nhớ chính xác. Các thợ thuyền cao tuổi ở Phong
               Hải cho biết nghề đóng thuyền có cách đây khoảng trên 300 năm. Đền thờ tổ nghề đã
               có từ trước nhưng ở vị trí khác, năm 1865 mới chuyển về phía Đông đình Cốc (phường
               Phong Hải). Từ xưa tới nay, thợ thuyền ở vùng này hầu hết là con cháu Tiên Công dòng
               họ Nguyễn, họ Lê, họ Vũ. Hằng năm, vào ngày mùng 10 tháng Hai (âm lịch) và mùng 10
               tháng Tám (âm lịch), người thợ nghề tới đền thắp hương tạ ơn Thánh sư tổ nghề, cầu mong
               cho con cháu đời sau tinh thông nghề nghiệp, thuyền bè lưu thông, kinh tế phát triển.

                  2. Văn vần dân gian

                  2.1. Ca dao, tục ngữ
                  Ca dao, tục ngữ ở Quảng Yên hết sức phong phú, phản ánh nếp sống, lối suy nghĩ của
               nhân dân địa phương. Bên cạnh những câu ca dao, tục ngữ mang tính phổ biến chung,
               người dân Quảng Yên còn có những câu mang dấu ấn riêng, khéo léo gửi vào từng câu
               chữ những địa danh, nét văn hóa riêng trong vùng. Trải qua thời gian, những câu ca dao,


               (1)  Hòn Dáu là một ngọn núi đất thuộc xã Hoàng Tân. Sông Bình Hương chảy đến gần Hòn Dáu thì
               chia thành hai chi lưu: sông Kênh Táo đổ ra khu vực Hòn Rều và sông Hòn Dáu đổ ra khu vực Bò
               Nội vịnh Hạ Long.
               (2)  Xem Lê Đồng Sơn (Chủ biên): Văn hóa Yên Hưng - Lịch sử hình thành và phát triển, sđd, tr.254-255.
   708   709   710   711   712   713   714   715   716   717   718