Page 343 - cea5e377cf074960b98d88a2154294d3_1_tmp
P. 343
Lê Đình Cai * CHIẾN TRANH QUỐC CỘNG TẠI VIỆT NAM 1954-1975
và không đi đến một thỏa hiệp nào vào đầu tháng 4-1974, sau 10
tháng đàm phán, TT Thiệu đã nhân cơ hội CSBV tiến chiến đồn
Tống Lê Chân, cho lệnh chấm dứt luôn việc tham dự hội nghị La
Celle Saint Cloud, bãi bỏ những ưu đãi và miễn trừ của các phái
đoàn CSBV và CHMN trong các phái đoàn liên hợp quân sự tại
Tân Sơn Nhất. TT Thiệu ra lệnh cắt điện thoại ở trụ sở phái đoàn
để họ không thể liên lạc với bên ngoài, dẹp bỏ các cuộc họp báo
hàng tuần của phe cộng sản tại trại Davis, hủy bỏ các chuyến bay
liên lạc hàng tuần giữa Sài Gòn và Lộc Ninh. Các phái đoàn của
cộng sản cũng phản đối quyết liệt, chấm dứt việc tiếp tục thảo
luận việc tìm kiếm những người mất tích.
Từ đó, cả hai bên đều coi như hiệp định Ba Lê không còn
giá trị nữa và CSBV đẩy mạnh kế hoạch tiến chiếm miền Nam
bằng vũ lực. Như đã dự trù từ trước qua nghị quyết của ban chấp
hành trung ương lần thứ 21 của đảng Lao Động (tháng 7-1973)
như sẽ đề cập đến trong phần sau.
II. - Những khó khăn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
(1973-1975)
Sau khi hiệp định Ba Lê được ký kết ngày 27-01-73, vị thế
của VNCH ngày càng suy yếu dần. Những khó khăn mà chính
phủ Thiệu phải thường xuyên đối mặt xuất phát từ nhiều phiá.
CSBV đang chuẩn bị tấn công quân sự, Quốc Hội Hoa Kỳ cắt
giảm viện trợ và nhân dân miền Nam đang nổi dậy đòi lật đổ.
1.- Quyết tâm xâm lăng của CSBV: Tài liệu của cộng sản
ghi nhận: "Như vậy từ sau hiệp định Paris đến cuối năm 1973,
với âm mưu và thủ đoạn chiến tranh của Mỹ ngụy ở miền Nam,
không những chính quyền Thiệu vẫn tồn tại, quân đội Ngụy
được tăng cường, bình định nông thôn được tiếp tục, hành quân
càn quét lấn chiếm được đẩy mạnh; mà địch còn có khả năng vô
hiệu hóa hiệp định Paris, đẩy mạnh chiến tranh Mỹ tiếp tục thi
hành chủ nghĩa thực dân mới". (13). Trước tình thế này, Bộ
Chính Trị cho triệu tập hồi tháng 5-1973 một hội nghị mở rộng
gồm các vị như Trần Văn Trà, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh
(Mười Cúc), Trần Nam Trung (Hai Hậu), Võ Văn Kiệt (Mười
342