Page 390 - cea5e377cf074960b98d88a2154294d3_1_tmp
P. 390
Lê Đình Cai * CHIẾN TRANH QUỐC CỘNG TẠI VIỆT NAM 1954-1975
3.- Gây chấn động dây truyền khiến các nơi khác như Quảng
Trị, Quảng Đức, An Lộc bị mất theo ngay sau đó (từ 19-3 đến
20-3)" (56).
Theo Hoàng Lạc và Hà Mai Việt cho biết trong "Việt Nam
1954-1975" thì khi đoàn di tản từ Cao Nguyên về tới Tuy Hòa,
chỉ còn 300 quân xa (trong số 1200); 5000 quân (trong số 20.000
binh sĩ); và 45.000 dân (trong số 200.000 thường dân) (57).
- Đợt tiến công thứ hai: chủ yếu là chiến dịch Huế-Đà Nẵng.
(từ ngày 21-3 đến 3-4-1975)
Để trình bày diễn tiến tổng quát của đợt tiến công lần thứ hai
mà trọng tâm là chiến dịch Huế-Đà Nẵng (từ 21-3 đến 3-4-75),
chúng tôi vẫn tiếp tục xử dụng các tài liệu chính như đã ghi chú
trong phần chú thích số (54) của Đoạn II, chương IV này, ngoại
trừ tài liệu của Phạm Huấn (chỉ đề cập đến chiến trường Tây
Nguyên), và thêm tài liệu của Xuân Thiều, "Bắc Hải Vân Xuân
75", xuất bản năm 1977).
Quân khu I của VNCH gồm 5 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên,
Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi được đặt dưới quyền của
bộ tư lệnh Quân Đoàn I đóng ở Đà Nẵng do trung tướng Ngô
Quang Trưởng làm tư lệnh và trung tướng Lâm Quang Thi làm
tư lệnh phó kiêm tư lệnh Bộ Chỉ Huy Tiền Phương (58), gồm
quân chủ lực là 3 sư đoàn Bộ Binh 1, 2, 3 và thêm 2 sư đoàn
tổng trừ bị là Nhảy Dù và Thủy Quân lục Chiến và 4 liên đoàn
Biệt Động Quân.
Sư đoàn 1 do chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm chỉ huy, sư
đoàn 2 do chuẩn tướng Trần Văn Nhựt và sư đoàn 3 do thiếu
tướng Nguyễn Duy Hinh. Sư đoàn Nhảy Dù do tướng Lê Quang
Lưỡng làm tư lệnh và sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến thuộc
quyền điều động của thiếu tướng Bùi Thế Lân.
Để mở cuộc tấn công ở vùng địa đầu giới tuyến, quân VC
gồm quân khu Trị Thiên (tức B4) với 3 trung đoàn địa phương
và nhiều tiểu đoàn biệt lập do Lê Tự Đồng làm tư lệnh kiêm
chính ủy, tư lệnh phó là Hồ Tú Nam, có sự tham chiến của 3 sư
đoàn 304, 324 và 325 (tức B5) do Nguyễn Hữu An làm tư lệnh
và Hoàng Đạo làm phó.
Tướng Ngô Quang Trưởng đã cho bố trí sư đoàn TQLC ở mạn
389