Page 165 - Trinh bay Dang bo TP Mong Cai qua cac ky Dai hoi (kho 24x24cm) small
P. 165

ÑAÛNG BOÄ THAØNH PHOÁ MOÙNG CAÙI QUA CAÙC KYØ ÑAÏI HOÄI


               Thực hiện Chỉ thị số 51-CT/TW ngày 09/3/1995 của Ban Bí thư Trung ương “Về Đại hội Đảng
            bộ các cấp” và Kế hoạch số 16-KH/TU của Tỉnh ủy Quảng Ninh, ngày 02/6/1995, Ban Chấp hành
            Đảng bộ huyện ban hành Kế hoạch số 05-KH/HU “Về tiến hành Đại hội Đảng bộ huyện và cơ
            sở”, từ tháng 11/1995 đến giữa tháng 01/1996, các chi, đảng bộ cơ sở trực thuộc Huyện ủy Hải

            Ninh tổ chức Đại hội.

               1.2. Thời gian, địa điểm, số lượng đại biểu

               Từ ngày 03 - 05/02/1996, Đảng bộ huyện Hải Ninh tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ XIX. Dự
            Đại hội có 150 đại biểu chính thức, đại diện cho hơn 1.000 đảng viên của Đảng bộ.

               2. NỘI DUNG ĐẠI HỘI
               2.1. Kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XVIII,

            nhiệm kỳ 1991 - 1995

               * Kinh tế

               Năm 1995, tổng sản phẩm quốc nội của huyện đạt 176 tỷ đồng. Đảng bộ chỉ đạo đẩy mạnh
            việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa. Từ năm 1991 - 1995,
            huyện đầu tư bình quân 1 tỷ đồng/năm cho công tác xây dựng thủy lợi và khuyến nông. Nhiều
            vùng sản xuất chuyên canh, chăn nuôi lớn được hình thành: vải, mận ở Hải Đông; chuối ở Hải

            Yên; đỗ tương, lạc ở Vạn Ninh và Hải Xuân. Tổng diện tích gieo trồng hằng năm duy trì ở mức
            5.537ha; tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 11.490 tấn/năm. Năm 1995, đàn trâu có 4.467
            con, đàn bò 1.615 con, đàn lợn 13.175 con.

               Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với nhiều thành phần kinh tế được phát triển. Tháng
            10/1994, đường điện 110kv đưa điện ra Móng Cái được hoàn thành. Tính đến cuối năm 1995,
            45% số hộ trên địa bàn huyện được sử dụng điện lưới quốc gia. Toàn huyện có trên 100 cơ sở sản

            xuất tiểu thủ công nghiệp.
               Hoạt động thương mại, du lịch, dịch vụ có chuyển biến tích cực. Khu thương mại được mở

            rộng. Nhiều khách sạn, nhà nghỉ được xây mới.

               Giao thông vận tải cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Toàn huyện làm mới
            64km đường nhựa và đường bê tông nội huyện. Các phương tiện giao thông vận tải tăng 3 lần
            so với năm 1990. Đến năm 1995, bình quân có 2,2 máy điện thoại/100 dân.


                                                                                                                         165
   160   161   162   163   164   165   166   167   168   169   170