Page 19 - Dang bo huyen Lang Giang qua cac ky Dai hoi
P. 19
ÑAÛNG BOÄ HUYEÄN LAÏNG GIANG QUA 22 KYØ ÑAÏI HOÄI
Nhân dân huyện Lạng Giang có truyền thống văn hóa. Nhiều
làng cổ có lai lịch lâu đời nằm trên trục đường Thiên lý cổ từ Ải
Nam Quan về kinh đô Thăng Long như làng Chu Nguyên, làng
Đại Phú, làng Lèo, làng Kép, Quang Hiển, Thanh Lương... Toàn
huyện có 225 di tích, trong đó có 19 di tích cấp quốc gia, 87 di tích
cấp tỉnh. Những di tích cấp quốc gia tiêu biểu như: Quần thể di
tích đình, đền, chùa Tiên Lục được xếp hạng Di tích quốc gia đặc
biệt (năm 2024); thời vua Lê Cảnh Hưng (1740 - 1786) đã sắc
phong cho cây Dã hương là “Quốc chúa đô mộc Dã Đại vương”;
đình Phù Lão (xã Đào Mỹ); đình, đền, chùa Chu Nguyên ở thị
trấn Vôi; đình Sơn, đình Mỹ Lộc (xã Mỹ Hà); đình Hà, chùa Hà
(xã An Hà); chùa Thông, đình Đảng (xã Nghĩa Hòa); đình Am (xã
Xuân Hương) là những công trình mang giá trị lịch sử, văn hóa,
kiến trúc nghệ thuật độc đáo.
Về văn học dân gian, trên địa bàn huyện tồn tại nhiều hình
thức như truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, truyện... Phổ biến là
truyền thuyết về các vị anh hùng có công giết giặc, cứu dân, cứu
nước như Cao Sơn, Quý Minh, các vị tướng lĩnh trong trận chiến
đấu chống giặc Minh xâm lược thế kỷ XV... Những câu chuyện
truyền miệng về trận đánh giặc Minh ở Phố Cát, nguồn gốc của
tên gọi địa danh Mả Ngô... Về văn nghệ dân gian, ở Lạng Giang
tồn tại 2 loại hình chính là hát chèo và hát tuồng. Trên địa bàn
huyện có các đội chèo ở làng An Lạc, làng Phan (xã Quang Thịnh),
làng Then (xã Thái Đào) và làng Chuông Vàng (xã Tân Hưng)...
Hát tuồng cổ có làng Liên Sơn (xã Tân Dĩnh), làng Đại Phú (xã
Phi Mô)... Hát quan họ như thôn Phú Độ (xã Phi Mô), phố Vôi
(thị trấn Vôi). Làng Then (xã Thái Đào) có đội vĩ cầm (vi-ô-lông)
nổi tiếng; thôn Cần Cốc (xã Hương Sơn) có hát then, thôn Cẩy (xã
Hương Sơn) có điệu hát soọng cô...
Nhân dân các dân tộc huyện Lạng Giang có truyền thống hiếu
học và khoa bảng. Thời phong kiến, Lạng Giang có nhiều người đỗ
đạt. 2 vị đỗ tiến sĩ đều là người xã Đức Mại (nay là Dương Đức),
là 2 ông cháu. Ông Nguyễn Xuân Lan sinh năm Canh Dần (1470)
đời vua Lê Thánh Tông, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
19

