Page 103 - Ky yeu Hoi thao khoa hoc Con duong... (21x29)
P. 103

Con ñöôøng xuaát döông cuûa ñoàng chí Traàn Phuù qua ñòa baøn thaønh phoá Moùng Caùi .103



            chia làm 3 tốp xuất phát từ 2 nơi: ga Vinh và ga Thanh Hóa. Ngày 12/7/1926, Trần Phú
            cùng các đồng chí của đoàn xuất dương xuất phát từ ga Vinh, sau đó các tốp gặp nhau
            ở ga Hàng Cỏ (Hà Nội), từ ga Hàng Cỏ để đi xe lửa xuống Hải Phòng. Đến Hải Phòng,
            chiều ngày 16/7/1926, các đồng chí xuống tàu thủy đi thẳng tới Mũi Ngọc, từ Mũi Ngọc

            các đồng chí đi đến Giếng Guốc (quãng đường hơn 10 cây số). Con đường này gồ ghề nhỏ
            hẹp nên các đồng chí phải đi bộ. Từ Giếng Guốc, đoàn tiếp tục cuộc hành trình đi chừng
            2 cây số thì đến xóm Pồ Hển. Đến đây, do quên mất đường nên các đồng chí phải ngồi đợi
            để đồng chí Lê Duy Điếm đi hỏi đường khoảng hơn tiếng đồng hồ. Sau đó đoàn tiếp tục
            đi khỏi xóm Pồ Hển, khi đi được một quảng thì đoàn thấy một toán lính từ đằng xa chạy
            lại. Ngay lập tức mọi người thi hành kế hoạch đã bàn, quẳng hết cặp và va li để chạy
            thoát thân. Đồng chí Lê Duy Điếm dẫn đoàn chạy qua một cánh đồng và mấy ngọn đồi.
            Khi mọi người chạy lên đến đỉnh đồi Phổ Xíu Lẻng (nay là đồi Trần Phú) thì nhìn thấy

            dòng sông biên giới hiện lên trước mặt. Hai đồng chí khỏe nhất trong đoàn là đồng chí
            Phan Trọng Quảng và đồng chí Nguyễn Văn Lợi (Lộc) dừng lại trên bờ sông để đối phó
            với bọn lính. Sáu đồng chí lội ra đến giữa sông nước sâu ngang cổ thì vừa gặp một chiếc
            đò từ bờ sông bên kia chèo sang để đón các đồng chí. Trong lúc vội vàng các đồng chí đã
            làm lật chiếc đò, đồng chí Quảng và đồng chí Lợi đã lội ào ra và đã lấy vai lật ngửa chiếc
            đò lên. Mọi người cùng xúm lại để tát nước và chiếc đò đã đưa tám đồng chí vượt sông
            qua biên giới. Sang đến bờ sông bên kia các đồng chí quay nhìn về Tổ quốc thì thấy hai
            đồng chí Phiệt và Tùng đã bị lính bắt. Đồng chí Trần Phú và các đồng chí trong đoàn đã
            đến Quảng Châu vào đầu tháng 8/1926.


               2. Giá trị di tích và giải pháp nâng tầm di tích “Con đường xuất dương của
            đồng chí Trần Phú qua địa bàn thành phố Móng Cái”

               Theo Điều 29 Luật Di sản văn hóa 2001 được sửa đổi bởi khoản 10 Điều 1 Luật Di sản
            văn hóa sửa đổi 2009 có quy định di tích lịch sử- văn hóa quốc gia là công trình xây dựng,

            địa điểm ghi dấu sự kiện, mốc lịch sử quan trọng của dân tộc hoặc gắn với anh hùng dân
            tộc, danh nhân, nhà hoạt động chính trị, văn hóa, nghệ thuật, khoa học nổi tiếng có ảnh
            hưởng quan trọng đối với tiến trình lịch sử của dân tộc. Từ đó, có thể khẳng định công
            trình, địa điểm, nơi đồng chí Trần Phú và các đồng đội đi qua, nghỉ chân trên con đường
            xuất dương sang Quảng Châu là địa điểm ghi dấu sự kiện, mốc lịch sử quan trọng trong
            cuộc đời làm cách mạng của đồng chí Trần Phú - một nhà hoạt động chính trị có tầm ảnh
            hưởng quan trọng đối với tiến trình lịch sử của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
            khẳng định “Đồng chí Trần Phú là một người con ưu tú của Đảng và của nhân dân, đã
            oanh liệt hy sinh cho cách mạng” ,“Là một người rất thông minh, hăng hái và cần cù,
                                                 (1)
            đồng chí Trần Phú đã làm được nhiều việc quan trọng cho Đảng” . Đặc biệt, tình hình
                                                                                     (2)
            quốc tế hiện nay có nhiều đổi thay với những diễn biến phức tạp, kẻ thù luôn tìm cách
            phá hoại công cuộc đổi mới, thực hiện “diễn biến hòa bình” mọi lúc, mọi nơi nhằm làm
            lung lạc niềm tin của nhân dân vào lý tưởng và con đường cách mạng, từ bỏ đấu tranh


            (1)  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, t.14, tr.309
            (2)  T.Lan: Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.56-57
   98   99   100   101   102   103   104   105   106   107   108