Page 476 - Trinh bay huyen Quoc Oai
P. 476
trong đó chủ yếu là diện tích lạc, đỗ tương và thêm 20ha chè búp của
các xã vùng bán sơn địa.
Phong trào trồng cây nhân dân, phủ xanh đất trống, đồi trọc được
duy trì thường xuyên, nhất là các dịp phát động “Tết trồng cây đền ơn
Bác”. Các hợp tác xã đều tổ chức vườn ươm, thành lập đội trồng cây.
Bình quân hằng năm, toàn huyện trồng 170.000 cây các loại. Các nơi
có phong trào khá là: Đông Hạ, Phú Cát, Ngọc Liệp.
Cùng với trồng trọt, chăn nuôi có sự phát triển toàn diện. Đội ngũ
cán bộ thú y cơ sở có 58 cán bộ chuyên trách hoạt động hiệu quả. Hằng
năm, 85 - 90% số đàn gia súc được tiêm phòng. Ngoài ra, Hội bảo vệ
vật nuôi huyện được củng cố, có 18 hợp tác xã tham gia gồm 15.100
đầu lợn... Phát huy lợi thế của vùng đồi, đàn bò tăng nhanh, từ 1.392
con (năm 1983) lên 1.854 con (năm 1985), 2.226 con (năm 1986). Tuy
nhiên, đàn trâu giảm từ 3.711 con (năm 1984) xuống còn 3.294 con
(năm 1986). Đàn lợn có 22.230 con (năm 1983) tăng lên 23.098 con
(năm 1986). Năm 1985, Quốc Oai được Ủy ban nhân dân tỉnh tặng cờ
“Huyện có phong trào chăn nuôi giỏi năm 1985”.
Bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được, trong hoàn cảnh
khó khăn chung của nền kinh tế đất nước, tình hình sản xuất nông
nghiệp của huyện vẫn còn những tồn tại, thiếu sót: tốc độ phát triển
của ngành nông nghiệp còn chậm, mất cân đối giữa trồng trọt với chăn
nuôi, giữa lúa và màu. Tiềm năng đất đai, lao động còn chưa được khai
thác tốt. Xây dựng Cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp còn yếu,
nhất là khâu thủy lợi, chưa căn bản giải quyết được úng lụt ở vùng
trũng, hạn ở vùng bãi và vùng bán sơn địa.
Đồng bộ với quá trình thực hiện chính sách khoán sản phẩm đến
nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp, Huyện ủy, Ủy
ban nhân dân huyện rất quan tâm củng cố và tăng cường quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Đội ngũ cán
bộ các hợp tác xã được củng cố một bước đi liền với đổi mới về tổ chức
và cơ chế quản lý. Một số cán bộ chủ chốt của Huyện ủy, Ủy ban nhân
dân huyện được tăng cường xuống chỉ đạo các cơ sở, kiên quyết vực dậy
những đơn vị yếu kém. Đến năm 1985, có 19/27 hợp tác xã đạt danh
hiệu tiên tiến và không còn cơ sở yếu kém, quyền làm chủ của người
lao động được phát huy, đời sống nhân dân có mặt được cải thiện, hoàn
thành nghĩa vụ với Nhà nước. Tuy nhiên, hiện tượng khoán trắng cho
xã viên chưa được khắc phục triệt để. Nguyên nhân do bộ máy lãnh
đạo hợp tác xã buông lỏng quản lý, cung ứng vật tư không kịp thời và
thiếu nên ở một số nơi, xã viên muốn trả bớt ruộng khoán. Phân phối
476

