Page 544 - Trinh bay huyen Quoc Oai
P. 544

tiến bộ kỹ thuật cho 9.174 người và mở lớp IPM cho 240 người. Kết
            quả, hằng năm có gần 60 hộ sản xuất giỏi cấp tỉnh, hơn 100 hộ sản
            xuất giỏi cấp huyện và gần 400 hộ sản xuất giỏi cấp cơ sở. Năng suất
            cây trồng tăng từ 42,92 tạ/ha (năm 1995) lên 53,15 tạ/ha (năm 2000).
            Sản lượng lương thực quy thóc tăng từ 51.661 tấn (năm 1995) lên
            64.137 tấn (năm 2000), bình quân hằng năm tăng 5,2%, vượt mục tiêu
            Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVIII đề ra.

               Chăn nuôi là thế mạnh của địa phương, phát triển với hướng đi
            chủ yếu là tăng cường đầu tư để tăng nhanh tổng đàn và chất lượng
            đàn, nhất là đàn trâu, bò và đàn lợn. Khi nông nghiệp chưa được cơ
            giới hóa, chăn nuôi chủ yếu nhằm đảm bảo sức kéo và phân bón, đến
            khi nông nghiệp, nông thôn từng bước được hiện đại hóa, các biện
            pháp thâm canh hiện đại dần thay thế phương pháp canh tác cũ thì
            ngành chăn nuôi phải phát triển theo hướng kinh tế hàng hóa, nghĩa
            là chuyển dần sang cung cấp thịt, sữa cho nhu cầu tiêu dùng và công
            nghiệp chế biến thực phẩm. Huyện ủy chỉ đạo ngành nông nghiệp và
            các xã phải đặc biệt chú trọng các chương trình Sind hóa đàn bò, nạc
            hóa đàn lợn; phát triển các loại gia cầm chuyên trứng, chuyên thịt, mở
            rộng hình thức chăn nuôi trang trại, xây dựng các cơ sở chế biến, khai thác
            nguyên liệu tại chỗ. Việc cải tạo đàn bò theo hướng Sind hóa tạo ra giống
            bò có tầm vóc và trọng lượng cao hơn bò địa phương từ 50 - 70 kg/con, tỷ
            lệ thịt tăng 12%. Đến năm 2000, toàn huyện có 7.050 con bò, trong đó,
            tỷ lệ bò có máu Sind 1/2 là 60%, tăng bình quân 2,6%/năm.

               Đối với đàn lợn, chuyển từ nuôi lợn kiêm dụng nạc mỡ sang hướng
            nạc với tỷ lệ nạc đạt 45% trở lên. Các giống lợn Yorkshire, Landrace
            có tỷ lệ nạc cao, tăng trọng nhanh được tổ chức nhân giống rộng ra các
            xã. Đồng thời, huyện chỉ đạo ngành nông nghiệp nghiên cứu, đề xuất
            các dự án chăn nuôi, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất
            thức ăn công nghiệp, tạo điều kiện và khuyến khích hộ gia đình hoặc
            liên gia xây dựng các nhà máy chế biến thức ăn gia súc với công suất
            từ 500 - 2.000 tấn/năm. Công tác kiểm dịch và tiêm phòng thú y đạt
            80% đối với những bệnh thường gặp ở gia súc. Với những biện pháp
            tích cực, đến năm 2000, đàn lợn của huyện đạt 62.300 con, tăng bình
            quân 7,5%/năm, trong đó có hơn 100 con lợn nái ngoại. Thịt lợn hơi
            xuất chuồng hằng năm đạt từ 3.000 - 3.500 tấn.

               Các giống gia cầm cho năng suất cao, thị trường tiêu thụ thuận
            lợi được tạo điều kiện phát triển như nuôi gà công nghiệp chuyên
            trứng,  chuyên  thịt.  Các  giống  vịt  siêu  trứng,  siêu  thịt  được

            544
   539   540   541   542   543   544   545   546   547   548   549