Page 92 - Trinh bay huyen Quoc Oai
P. 92

các cấp đã thực hiện tốt những cải cách dân chủ. Thuế thân được bãi
            bỏ. Ruộng đất của thực dân Pháp ở đồn điền Phú Mãn bị tịch thu, chia
            cho dân cày nghèo. Ruộng đất của địa chủ phát canh phải giảm tô 25%
            cho tá điền. Phe giáp được giải tán; các loại công điền, bãi công được
            chia lại theo nguyên tắc dân chủ, công khai, công bằng; lần đầu tiên
            phụ nữ cũng được hưởng quyền chia công điền như nam giới, rất phấn
            khởi. Đi đôi với bảo đảm các quyền lợi về kinh tế, Mặt trận Việt Minh
            và chính quyền các cấp còn rất quan tâm hướng dẫn xây dựng và thực
            hiện đời sống mới ở nông thôn. Mọi tập tục lạc hậu ở chốn đình trung,
            nơi phe giáp như khao vọng, cơm xôi gạo lượt, lềnh lợn, lềnh chay đều
            được bãi bỏ. Các tệ mê tín dị đoan cũng bị bài trừ. Ma chay, cưới xin
            cũng không tốn kém, hoang phí như trước. Khẩu hiệu “Uống rượu là
            uống máu đồng bào” được đề ra trong thời gian này đã mang tính giáo
            dục sâu sắc, thuyết phục cao độ trong việc vận động bài trừ tệ nạn xã
            hội này... Cán bộ, đoàn viên, hội viên các đoàn thể và Nhân dân đều
            noi gương Bác Hồ và cố gắng làm theo lời Bác dạy: “Cần - kiệm - liêm -
            chính - chí công vô tư” trong cuộc sống và công việc chung. Ai nấy đều
            hăng hái tăng gia sản xuất, học hành và nhiệt tình tham gia công tác
            xã hội, không nề hà, suy tính thiệt hơn. Tuy đời sống vẫn còn nhiều
            khó khăn, thiếu thốn nhưng trộm cắp vặt cũng hầu như không còn,
            cướp bóc không có, xóm thôn hòa thuận, đoàn kết, yên vui.

               Đáng chú ý là ở một số xã có một số hội viên cứu quốc hoặc quần
            chúng cảm tình với Việt Minh do trước đây đã được đọc trên sách báo
            công khai của Đảng, hoặc được nghe cán bộ của Đảng nói về con đường
            đi lên và cuộc sống của nông dân Liên Xô đã đứng ra hô hào và tổ chức
            việc làm ăn tập thể trong địa phương mình. Đầu tiên là ở Cấn Xá Hạ
            lập “Bùi gia trang” - trang trại của gia đình họ Bùi. Ở Đa Phúc, trong
            khi chia lại công điền, công thổ, Chi bộ đã đề nghị với Ủy ban xã để
            lại cho hơn 30 mẫu Bắc Bộ để thành lập một hợp tác xã nông nghiệp
            và để hợp tác xã có diện tích canh tác tập thể. Ở Nghĩa Hương, cả ba
            thôn đều có hợp tác xã hoặc đội xung phong khai thác. Ở Việt Yên,
            Hòa Mục, Bạch Thạch cũng có hợp tác xã nông nghiệp. Ở Cấn Xá - nơi
            chuyên đi khai thác giang, nứa về bán còn lập phân đoàn giang, nứa
            theo kiểu một nghiệp đoàn. Ở Hòa Mục còn lập một hợp tác xã sinh
            sản để chăn nuôi trâu bò đàn...

               Tuy số lượng xã viên còn ít, tổ chức còn giản đơn nhưng các hợp
            tác xã này cũng đều có bộ máy để điều hành chung, có nội quy đi làm,
            có cách phân phối theo tỷ lệ ruộng đất, cổ phần đóng góp và kết quả

            92
   87   88   89   90   91   92   93   94   95   96   97