Page 93 - Trinh bay huyen Quoc Oai
P. 93

lao động của từng nhà, từng người. Một số hợp tác xã còn quan tâm
            đến các mặt phúc lợi công cộng; trong đó, Hợp tác xã Đa Phúc với 30
            mẫu xã dành cho, với mỗi cổ phần góp vào 100kg thóc đã kinh doanh
            được nhiều ngành nghề: cấy trồng cây lương thực và cây công nghiệp,
            kéo mật, làm gạch ngói, chăn tằm, đã chăm lo được việc học hành của
            người lớn (nhất là chị em phụ nữ) và trẻ em, đã vừa tổ chức được việc
            ăn chung cho xã viên sau buổi lao động vừa tạo điều kiện vật chất cho
            tự vệ và các đoàn thể cứu quốc hoạt động, được tỉnh, huyện về kiểm
            tra, khích lệ... Tuy vậy, việc ra đời các hợp tác xã trong thời điểm này
            còn mang tính chất tự phát của địa phương và đều không tồn tại được
            lâu mà nguyên nhân chính là do nhận thức ấu trĩ về chủ nghĩa cộng
            sản, về cách “làm chung ăn chung”, đã nôn nóng muốn hợp tác xã
            mình nhanh chóng đi tới cuộc sống lý tưởng đó với nhiều phúc lợi tập
            thể, trong khi đó vốn ít, sản xuất kinh doanh chưa đạt hiệu quả cao,
            nên đã nảy sinh mâu thuẫn nội tại, phải giải thể.
               Công tác xóa nạn mù chữ cũng bước đầu được thực hiện bằng phát
            động phong trào “Người biết chữ dạy người chưa biết chữ”, thi đua dạy
            và học bình dân học vụ. Đầu tháng 9/1945, Trường Kiêm bị huyện và
            các trường tiểu học, hương học ở các làng, xã đều khai giảng năm học
            mới. Bài học đầu tiên mà các em được học trong ngày khai trường đầu
            tiên là “Thư gửi cho học sinh” của Bác Hồ, với lời nhắn nhủ ân cần và
            mong muốn thiết tha của Bác “... Non sông Việt Nam có trở nên tươi
            đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc
            năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập
            của các em”. Bộ máy chỉ đạo phong trào và chuyên môn của ngành
            giáo dục huyện cũng được hình thành, đặt trụ sở ngay chính tại nhà
            làm việc của viên huấn đạo cũ. Huyện và các xã đều thành lập Ban
            bình dân học vụ. Hình thức tuyên truyền cổ động, thôi thúc người đi
            học rất phong phú: khẩu hiệu, ca dao, hò vè, diễn kịch, viết những chữ
            cái trên tường, vào cầu quán, gốc cây gần đường để mọi người đi qua,
            đi làm về nghỉ chân cũng có thổ ôn được dăm ba chữ, dựng “Cổng vinh
            quang” và cả “Cổng mù” để kiểm tra người biết chữ và chưa biết chữ.
            Việc khuyến khích, giúp đỡ người đi học cũng được Mặt trận, các đoàn
            thể và Ban bình dân học vụ quan tâm thiết thực bằng giấy bút, dầu
            đèn. Người dạy thì không đòi hỏi có phụ cấp thù lao và ngoài những
            giáo viên các cấp có chuyên môn, những thanh niên có bằng cấp, còn
            có những người văn hóa chưa cao lắm, nhưng làm theo lời dạy của
            Bác Hồ “Người biết chữ dạy người chưa biết chữ” đã rất say sưa,


                                                                              93
   88   89   90   91   92   93   94   95   96   97   98