Page 154 - LSDB xa Xuan Ngoc
P. 154
hợp tác xã nhận thấy Nông nghiệp 8 là giống lúa dễ chăm
bón và cho năng suất cao nhất. Từ năm 1972 trở đi, đồng đất
Xuân Ngọc chủ yếu cấy lúa Nông nghiệp 8 và Việt Nam 10
(vụ chiêm) và Khê mộc (vụ mùa). Để cải tạo đất và chăm bón
cho lúa có năng suất cao, phong trào làm bèo dâu được đẩy
mạnh. Các cánh đồng của xã trong nhiều năm liền được thả
bèo dâu kín diện tích, có năm bèo dâu được dấn hai lần trong
một vụ ở một số diện tích ruộng. Cùng với phân chuồng, bèo
dâu, thời kỳ này các hợp tác xã còn trồng điền thanh mô xen
kẽ trong lúa. Tuy nhiên, phương pháp này cũng chỉ tồn tại
được vài năm. Vì thực tế cho thấy nếu để điền thanh tốt sẽ
che ánh sáng của lúa, nếu dấn điền thanh sớm khi cây còn
nhỏ thì sẽ ít tác dụng. Các đội chuyên của hợp tác xã lần lượt
được thành lập. Đội giống chuyên lo khâu mạ cho hợp tác xã,
bắt đầu từ khâu lựa chọn giống, ngâm thóc ủ mầm, làm mạ
theo đúng quy trình kỹ thuật, cho đến khâu chỉ đạo xã viên
cấy theo đúng thời vụ. Đội kỹ thuật theo dõi, giúp xã viên cày
cấy, chăm bón, trực tiếp phát hiện và phòng trừ sâu bệnh.
Đội thủy lợi (còn gọi là đội 202) chăm lo việc tưới tiêu nước
và bảo vệ đồng ruộng... Ở các đội sản xuất hình thành các tổ
cày, tổ cấy, tổ bảo vệ đồng ruộng... Để đưa nhanh khoa học kỹ
thuật vào sản xuất nông nghiệp, được sự chỉ đạo của Đảng
ủy, các ban quản trị hợp tác xã hằng năm thường xuyên cử
cán bộ, xã viên đi đào tạo chuyên môn ở trường Nông nghiệp
tỉnh. Từ năm 1965 - 1975, xã đào tạo được 6 cán bộ trung cấp
kỹ thuật nông nghiệp (có 3 kỹ thuật trồng trọt và 3 kỹ thuật
chăn nuôi và thú y), hơn 30 cán bộ sơ cấp về trồng trọt và chăn
nuôi. Bên cạnh các biện pháp thâm canh, hợp tác xã còn chỉ
đạo xen canh, tăng vụ, mở rộng diện tích gieo trồng. Hàng chục
mẫu khoai tây, khoai lang được đưa vào trồng trên diện tích mạ.
154

